Khi nói Pháp là phương pháp, là cái chìa khóa mở cửa hạnh phúc, chuyển
đau khổ thành an vui, luyện cát ra vàng ròng, thì bất luận là người theo
đạo nào, muốn hết khổ được vui, đều cần phải có nó.
DẪN NHẬP
Chữ
Pháp trong đạo Phật có rất nhiều nghĩa: theo nghĩa hẹp thì “Pháp” là
tất cả kinh, luật, luận gọi là “ba tạng” ghi lại những lời Phật dạy
trong 45 năm Ngài còn ở đời giáo hóa; theo nghĩa rộng nhất thì “Pháp”
chỉ tất cả sự vật hữu hình vô hình, thuộc vật chất hay tâm linh, cụ thể
hay trừu tượng, có thực hay bịa đặt như lông rùa, sừng thỏ.
Pháp
còn ám chỉ niết bàn Phật chứng, chân lý tối hậu hay “tri kiến Phật” mà
Phật đã đạt, như trong từ ngữ “pháp nhãn ly trần vô cấu” hay con mắt
pháp thanh tịnh.
Pháp cũng còn có nghĩa là phép tắc lý đương
nhiên của sự vật, tương tự chữ “đạo” mà ngài Huệ Năng dùng “Sắc loại tự
hữu đạo, cácbất tương phòng não” nghĩa là mỗi loài tự có cái đạo hay cái
lý, cái pháp của nó, như ong kiến biết làm tổ, hoa biết nở, chim bay cá
ìội, cò trắng quạ đen vân vân không thể đổi khác.
Nhưng còn một nghĩa nữa cũng rất quan trọng của danh từ “pháp”, đó là nghĩa “phương pháp”.
Chúng
ta sẽ chú trọng đến ý nghĩa này của Pháp, đó là Phương pháp học Phật,
hay cách tu hành, cách chuyển hóa cuộc đời đau khổ thành an vui, đó mới
là vai trò quan trọng nhất của Pháp.
Nếu Pháp chỉ là ba tạng giáo
điển Phật dạy, thì người không tin Phật sẽ không đếm xỉa. Hoặc dù có
tin nhưng không biết chữ, bận làm ăn buôn bán cũng không đọc được.
Nếu
Pháp chỉ là Niết bàn Phật chứng, là chân lý tối hậu, thì phàm phu chúng
ta đang còn lăn lộn giữa bụi trần cũng vô phương mó tới.
Còn nếu
Pháp là cál lý đương nhiên của mọi sự vật thì ta sẽ nghĩ rằng lý đương
nhiên của con người sống giữa đời là phải bon chen, ăn miếng trả miếng,
cái nghiệp của ta đã là như vậy thì tu hành nào có lợi ích gì.
Nhưng
khi nói Pháp là phương pháp, là cái chìa khóa mở cửa hạnh phúc, chuyển
đau khổ thành an vui, luyện cát ra vàng ròng, thì bất luận là người theo
đạo nào, muốn hết khổ được vui, đều cần phải có nó.
NHỮNG CÁCH SỬ DỤNG SAI CHÌA KHÓA PHẬT PHÁP
Khi đã xác định ý nghĩa chữ Pháp là chìa khóa, ta mới thấy có nhiều lốí hành xử như sau.
Liệng mất chìa khóa
Có
khi giảng sư nói thẳng chân lý Phật dạy trong kinh điển, như nói hết
thảy pháp không sinh không diệt không dơ không sạch. Hoặc về giới sát
sinh, thì nói không được giết hại từ người cho đến sinh vật nhỏ nhất như
muỗi mòng sâu kiến.
Một số Phật tử nghe không hiểu nên đâm chán,
ngủ gục; một số khác thấy Phật Pháp quá cao siêu mà mình quá tệ, đã lỡ
sát sinh quá nhiều đâm ra mặc cảm bỏ cuộc.
Đó là thái độ liệng xâu chìa khóa vì thấy vô dụng đối với mình.
Dùng không đúng cách
Pháp không hợp trình độ:
Khi
định nghĩa Pháp là phương pháp thì có rất nhiều, tùy thời, tùy người,
tùy việc mà vận dụng. Nhiều khi một phương pháp thích hợp với giảng sư
lại không hợp với Phật tử trình độ tu hành còn thấp kém, ví dụ câu “Dâm
phòng tửu tứ vô phi thanh tịnh đạo tràng” rất thích hợp để đem nói cho
một vị tu hành đã hết lầm lỗi, nhưng quá chấp trước vào sự thanh tịnh,
không màng đến chuyện xuống núi lợi sinh hành đạo.
Nhưng nếu nói
cho một bợm nhậu nghe thì không còn sửa đổi gì y được nữa. Bởi thế, Phật
pháp còn gọi là pháp bất định, cũng như thuốc trị bệnh có nhiều thứ và
liều lượng khác nhau, dùng không đúng bệnh và đúng lượng thì chẳng những
bệnh không khỏi mà còn thêm hại.
Người nghe cố chấp:
Có
nhiều Phật tử nghe Pháp rồi chấp chặt vào pháp ấy xem như chân lý duy
nhất đúng, mà không xét đúng cho hạng người nào, đối tượng nào. Lỗi
không ở giảng sư mà ở người nghe. Có một gia đình nọ cha mẹ không biết
gì đến Phật pháp nhưng cô con gái lại thường theo bạn bè đi chùa nghe
pháp.
Sau một thời gian nhờ thấm nhuần Pháp, cô tha thiết xin cha
mẹ xuất gia. Cha mẹ lúc đầu không cho, nhưng cô gái một mực năn nỉ,
cuối cùng ông bà phải xiêu lòng cho con xuất gia.
Vào chùa xong,
cô gái lại còn dụ được cha mẹ đi nghe pháp. Rủi thay trong thời pháp mà
ông bà được nghe lần đầu tiên đó, có một câu làm cho họ đắc ý: “Ở đâu tu
cũng được, không cần phải vào chùa”. Họ bèn lôi cổ cô con về lại nhà.
Lại
có giảng sư dạy rằng không phải cứ ăn chay, niệm Phật mới là tu. Dĩ
nhiên giảng sư nói không sai, nhưng cũng không đúng hẳn. Thế mà có một
Phật tử ăn chay trường ba mươi năm, nghe thế bèn về ngã mạn.
Như
thế đấy là sự tai hại của việc nói pháp cho công chúng khi có quá nhiều
trình độ, nhiều chấp trước bất đồng. Cho nên trong kinh Kim Cang, sau
khi đã dạy rất nhiều, Phật dạy: “Như Lai không có nói gì cả”. Để chúng
ta đừng bám vào lời Ngài, xem là chân lý duy nhất đúng, mà không xét lời
Ngài đang nói nhắm vào hạng người nào, cốt trị căn bệnh gì. “Tin ta mà
không hiểu ta chính là phỉ báng ta đó”. Phật đã từng dạy.
Thái độ
trên đây là “thực hành theo Pháp mình đã nghe một cách vội vàng, không
suy xét”. Đó là thái độ của người kém trí tuệ, có lòng tin mù quáng
thành ra tự hại mình và còn làm cho thầy mang tiếng xúi bậy. Khi tu hành
không được kết quả thì lại mất lòng tin một cách oan uổng. Chẳng khác
nào Phật đưa cho cái chìa khóa, mà không mở được cửa vì xoay chìa không
đúng cách. Hoặc có khi xoay chìa đúng, cửa sẵn sàng mở nhưng thay vì đẩy
ra, ta lại kéo vào thì cũng không xong!
Ngã chấp
Còn một
thái độ thứ ba cũng không kém tác hại, là bác bỏ ngay lời giảng dạy vì
không hợp gu của mình. Đây là thái độ nóng nảy của người muốn chóng có
kết quả, xem phương pháp tu của Phật dạy thật quá lâu lắc không thiết
thực, rồi đi theo những thầy tà bạn ác để mau đắc thần thông. Khi biết
mình bị lừa thì đã quá muộn.
Thờ chìa khóa
Một thái độ thứ
tư là người nghe pháp xem như một bùa chú linh nghiệm, cất kỹ để hộ
thân thay vì xem Pháp như những chỉ giáo để sống trên đời. Chẳng khác
nào kẻ đang bị giam giữ, được cái chìa khóa để mở cửa nhà giam, nhưng
lại lầm cho đó là bùa chú để hộ thân, bèn suốt ngày săm soi, đặt lên bàn
thờ, lâm râm tụng niệm “Nam mô chìa khóa, nam mô chìa khóa...”
Nhờ
lòng tin tưởng ấy, người tù cũng cảm thấy đỡ khổ khá nhiều nhưng sao bì
được với việc sử dụng chìa khóa để mở cửa nhà tù mà ung dung bước ra.
VĂN TU TU
Biết
pháp còn phải biết cách vận dụng pháp thì mới thực sự có lợi ích, cũng
như có chìa khóa còn phải biết cách mở. Chúng ta học Pháp là học chân lý
Phật dạy, nhưng còn phải biết những phương pháp để thực hành chân lý ấy
tùy từng giai đoạn và nơi chốn. Trong sự học Pháp, Phật đã dạy ba
phương pháp học là VĂN, TƯ và TU.
VĂN là nghe giảng, đọc sách,
thảo luận với bạn đạo để hiểu cho thấu đáo và rộng rãi lời Phật dạy.
Nhưng nghe không cũng chưa đủ. Có người đi nghe giảng suốt đời, thuộc
lòng Phật pháp và đọc tụng những kinh điển cao siêu nhưng vẫn chứng nào
tật ấy, chẳng có gì tiến bộ trong đời sống hàng ngày, lại còn mắc thêm
chứng kiêu mạn cho ta đây kinh gì cũng biết. Đấy là hạng Phật tử làm sưu
tập chìa khóa mà không sử dụng, chất chìa khóa đầy nhà thì chỉ thêm
choán chỗ.
TƯ là suy nghĩ cân nhắc đắn đo về những pháp mình đã
nghe, đi sâu vào Pháp bằng tâm ý của mình chứ không chỉ bằng lỗ tai và
cái miệng. Có tư duy thiền định mới thấm được những lợi ích sâu xa của
Pháp ngoài các lợi ích nhỏ nhoi như cứu bệnh, tăng thêm tài lộc, thăng
quan tiến chức...
Có một nhóm quân nhân Phật tử thường họp nhau
thảo luận Phật pháp mỗi tuần một đề tài. Hôm ấy đề tài là “Tại sao anh
tin Phật?”. Rất nhiều ý kiến được đưa ra, đa số thuộc về những linh ứng
mà bản thân đương sự đã được hưởng mỗi khi gặp gian nguy trong đời, đại
loại như, “Tôi tin Phật vì một dạo gia đình chạy giặc nửa đêm đến một
khúc sông lớn, giặc đuổi sau lưng; cả gia đình thành tâm niệm Bồ tát
Quan âm thì bỗng xuất hiện một chiếc thuyền trên đó có ông già mặc áo
trắng râu bạc ghé vào bờ đưa tất cả qua sông. Vừa lên bờ nhìn xuống toan
tìm ông già để trả tiền thì không thấy gì nữa, cả thuyền và người đều
biến mất...”
Thực cũng khá hấp dẫn, người nghe có người cảm động
có kẻ không tin. Nhưng có một lời phát biểu làm cho mọi người phá lên
cười là của một Phật tử: “Tôi tin Phật vì ngài bảo đừng tin Ngài”. Đấy
là một người thực sự có suy tư về Pháp và thấm nhuần được những lợi ích
sâu xa của Pháp.
Phật dạy đừng vội tin lời Ngài, mà nghe xong
phải suy nghĩ cho chín chắn coi đúng không cái đã. Có những Pháp không
đúng trong lúc này mà lại đúng vào lúc khác, nên người học cần phải có
sự sáng suốt nhận định theo hai chiều: khế lý và khế cơ.
Pháp mình nghe được phải đúng chân lý đã đành nhưng còn trình độ của mình nên thực hành như thế nào cũng cần xét đến.
Ví
dụ với người đang hành nghề đồ tể hay đánh cá khi nghe giới “không được
sát sinh”, thì cần trước hết tìm xem điều ấy có đúng không. Khi đã thấy
là đúng, nhưng mình chưa bỏ được thì nên thực hành theo từng giai đoạn,
như đầu tiên làm “diệu hạnh” nghĩa là kiêng sát sinh vào những ngày vía
Phật, ngày rằm, vân vân rồi từ từ giảm việc sát sinh khi không phải vì
mưu sinh mà vì muốn làm giàu. Và cuối cùng, có thể đổi sang nghề khác.
Đó là cách tu tuần tự.
Tất cả các giới pháp khác cũng vậy, phải
xét trình độ mình có thể theo Pháp đến mức nào, và cố thực hành dù ở mức
thấp nhất. Như thế là biết cách xoay xở để sử dụng cái chìa khóa Phật
pháp để dần dần thoát vòng nghiệp chướng.
Trong kinh Bách Dụ,
Phật có kể chuyện một người khát nước gần chết nhưng khi gặp một con
sông thì lại không chịu uống, bảo rằng nước nhiều quá làm sao tôi uống
cho hết được, và cuối cùng phải chết khát bên dòng sông. Đấy là thái độ
người nghe Pháp thật nhiều mà không thực hành, vì cứ nghĩ Pháp Phật quá
sâu rộng cao xa mà mình quá kém cỏi.
Một khía cạnh thứ ba của
việc học Pháp là TU TUỆ, nghĩa là áp dựng Pháp vào đời sống hàng ngày
sau khi chọn lựa những gì thích hợp cho trình độ mình. Đôi khi thầy dạy
một điều rất cao mình phải biết là mình chưa đạt tới trình độ ấy, chưa
áp dụng được, nhưng đừng vội phủ nhận vì một thời gian sau, nếu tinh
tiến tu hành sẽ có lúc mình đạt đến chỗ ấy.
Ngày xưa ở Tây Tạng
có một ông vua rất hâm mộ Phật pháp, mời một pháp sư nổi tiếng về kinh
đô giảng cho cả triều đình. Pháp sư này tu Bát nhã đã chứng Tính không
nên giảng toàn về Không, tứ đại ngũ uẩn giai không, phàm thánh giai
không, sinh tử niết bàn cũng giai không, tội phúc cũng giai không...
Vị
vua nghe Pháp sư giảng xong rất thích thú nhưng đồng thời cũng thấy
thật nguy hiểm để cho ông này sống, vì ông nói quá hay, nếu để ông giảng
cái Không ấy cho thần dân thì không còn ai tu hành gì nữa... Và vua
cũng muốn thí nghiệm coi pháp sư có thực chứng Tứ đại giai không không
hay chỉ nói nơi lỗ miệng. Bèn đem pháp sư ra xử trảm.
Pháp sư quả
đã thực chứng tính không nên trước cái chết ông không biến sắc. Sau đó
vua thỉnh một vị thầy khác về kinh đô giảng Pháp, vị này lúc đầu nói về
nhân quả nghiệp báo, làm lành gặp lành làm ác gặp dữ, bởi thế cần phải
làm lành lánh dữ, nếu muốn gặp lành không muốn gặp dữ. Ai cũng muốn lành
thế mà lại làm ác, không ai muốn gặp dữ thế mà ít ai chịu làm điều
lành, vì mâu thuẫn như thế nên thế gian này đầy những rối ren đau khổ.
Muốn
làm lành lánh dữ cần phải có trí tuệ phân biệt cho đúng cái gì thực là
lành, cái gì thực là dữ. ông vua nghe pháp này rất lấy làm hài lòng, bèn
hỏi: “Thế thì tính không có phải là Phật pháp hay không? Hay đó là chủ
thuyết tà ngụy?”.
Vị pháp sư này tâu: “Tâu bệ hạ, tính không mới
là cốt tủy của Phật pháp. Sau khi đã thuần thục trong việc bỏ ác làm
lành, vua phải an trú tâm vắng lặng không vướng bận quả báo, thì mới là
điều lành tối thượng. Nếu còn vướng một điều lành nào thì cũng chưa thực
sự giải thoát, vì sẽ ham hưởng quả báo ở cõi trời, nghĩa là vẫn còn
quanh quẩn trong tam giới”.
Sau một thời gian tu tập vua mới thấm ý nghĩa Tính không này, và vô cùng ân hận vì đã lỡ giết mất một bậc minh sư.
Đấy
là tai hại của việc nghe pháp mà không tư duy tu tập và vội vàng kết
luận về pháp mình đã nghe, không suy xét trình độ bản thân mình.
KẾT LUẬN
Khi
nghe Pháp tối thượng về Tính không, ta nên cẩn thận suy xét lời giảng
sư nói, rồi chiêm nghiệm coi mình tu hành đã đến trình độ đó hay chưa.
Nếu chưa, thì khoan làm theo nhưng phải thấy được đấy là pháp tối thượng
để không mất hướng mục tiêu giải thoát. Vì Pháp chung quy chỉ là ĐƯỜNG
LỐI GIẢI THOÁT. Giải thoát là hết chấp trước. Nhưng có nhiều cách chấp.
Khi còn phàm phu ta chấp vào ăn mặc ở, vào sắc thanh hương vị xúc, nên
khởi sự ta phải tu hạnh từ bỏ, thiểu dục tri túc, nghĩa là tu GIỚI.
Đó
là chặng đầu của giải thoát. Khi giới hạnh thanh tịnh, cảm thấy tâm yên
ổn không có gì ân hận, tâm được định tĩnh, mới thấy rõ cái gì là thiện
cần làm cái gì là ác cần tránh. Đó là chặng gíữa của con đường giải
thoát. Nhưng còn vướng bận về thiện ác, còn ôm giữ quả báo nghĩa là còn
ngã chấp thì cũng chưa thực sự giải thoát, nên cần phải buông xả, đạt
đến VÔ NIỆM VÔ TRÚ VÔ TƯỚNG như lời dạy của tổ Huệ năng thì mới là giải
thoát thực sự, tức là khai mở tri kiến Phật để thấy được Tính không:
“Bản lai vô nhất vật, hà xứ nhá trần ai?”
Nghe
như vậy, có người khởi lên ý nghĩ “tôi cần phải buông xả” thì lại là
một sự trói buộc khác. Cho nên, cứ theo nguyên tắc là tất cả ác nên
tránh, tất cả lành nên làm, rồi tùy khả năng mà làm lành lánh dữ nhưng
trong tâm không nghĩ đến quả báo. Khi nào đúng thời tiết nhân duyên, thì
giải thoát tự đến, như cứ chăm sóc cây cối thì đúng kỳ sẽ có hoa trái,
chứ không phải muốn mà được
Nhưng việc tu tâm có hơi khác ở chỗ,
ta có thể thấy được tiền vị của Niết bàn, trong khi tu nhân ta đã thấy
được cái quả lấp ló. Muốn thực nghiệm, hãy buông bỏ mọi mong cầu, ngay
cả mong cầu giải thoát, không nghĩ thiện không nghĩ ác, để tâm hoàn toàn
vắng lặng mà vẫn tỉnh táo. Trạng thái VÔ NIỆM ấy là tin tức về bản lai
diện mục, về niết bàn. Nhưng một niệm sau đó muốn kéo dài giây phút ấy
ra tức là đã lọt vào tam đồ lục đạo.
Thích Nữ Trí Hải