Từ Bi –Thiện Ý
Tỳ-kheo Thanissaro
Tỳ Khưu Thanissaro (Geoffrey DeGraff) là một tu sĩ người Mỹ theo
truyền thống tu trong rừng của Thái Lan. Sau khi tốt nghiệp Đại
học Oberlin năm 1971 với chuyên ngành về Lịch sử Tri thức Âu Châu,
ông theo học thiền với Thiền sư Ajaan Fuang Jotiko ở Thái Lan và
xuất gia năm 1976. Năm 1991 ông giúp xây dựng Lâm Tự Viện ở San
Diego, California, nơi ông là trụ trì. Ông là một dịch giả, người
viết năng nổ. Nhiều tác phẩm của ông có thể được tìm thấy trên
mạng có tên:
www.accesstoinsight.org.
***
Thầy
tôi, Ajaan Fuang, có lần khám phá ra có một con rắn đã bò vào phòng mình.
Mỗi lần bước vào phòng, Sư thấy nó chui vào cái khe sau tủ đựng đồ. Và
dầu ông đã cố tình để cửa mở cả ngày, rắn cũng không chịu ra khỏi phòng.
Họ đã sống chung như thế trong ba ngày. Ông đã rất cẩn thận không làm
kinh động rắn hay làm nó cảm thấy bị đe dọa bởi sự có mặt của ông. Cuối
cùng vào buổi chiều của ngày thứ ba, khi ngồi thiền, ông đã quán tưởng
đến con rắn. Ông thầm nghĩ, “Này rắn, không phải là ta ghét ngươi. Ta
không có ý xấu gì về ngươi. Nhưng tâm chúng ta vận hành khác nhau. Vì
thế, ta rất dễ hiểu lầm nhau. Bên ngoài rừng kia có rất nhiều chỗ cho
ngươi sống mà không phải sống e dè với ta”. Khi ông ngồi thiền rải tâm
đến cho rắn như thế, nó đã bỏ đi.
Lần
đầu tiên nghe Ajaan Fuang kể chuyện này, tôi dừng lại, quán xét sự hiểu
biết của mình về từ bi (metta)
như thế nào. Từ bi là ước muốn được hạnh phúc – hạnh phúc thực sự – và
Đức Phật dạy ta phát triển ước muốn này cho bản thân và cho người: “Với
tâm từ cho toàn thể vũ trụ, vun trồng một trái tim không giới hạn”. (Sn
1:8)1
Nhưng cảm xúc nào sẽ đi cùng với ước muốn đó? Nhiều người định nghĩa đó
là “tình thương, sự tử tế” (lovingkindness), ám chỉ một ước muốn được có
mặt vì người khác: để yêu thương, để ban tặng sự âu yếm, vỗ về và bảo vệ.
Ý tưởng về việc cảm thấy yêu thương tất cả mọi người nghe rất cao cả,
đẹp đẽ. Nhưng khi bạn thực sự dừng lại để nghĩ về tất cả mọi chúng sanh
trong vũ trụ, thì có rất nhiều người - giống như con rắn đó - sẽ phản
ứng lại với lòng tử tế của ta bằng tâm nghi ngờ và sợ sệt.
Thay
vì đón nhận lòng từ của bạn, họ chỉ muốn được để yên. Kẻ khác thì lại cố
tình lợi dụng lòng tử tế của bạn, coi đó là dấu hiệu của người yếu đuối
hay sự đồng thuận của bạn về mọi việc họ muốn làm. Trong tất cả những
trường hợp này, liệu tâm từ bi của bạn có mang đến hạnh phúc thực sự cho
ai không. Trong trường hợp này, hẳn là bạn không thể không nghĩ liệu
những lời dạy của Đức Phật về từ bi có thực sự khôn ngoan hay thực tế?
Qua
cách Ajaan Fuang đối xử với con rắn, tôi nhận thấy
metta
không hẳn là thái độ từ bi. Đúng hơn, đó là thái độ của thiện ý - mong
muốn điều tốt lành cho người khác, với ý thức rằng hạnh phúc thực sự là
điều mà mỗi chúng ta phải tự khám phá ra cho mình, và đôi khi cách dễ
nhất là mỗi người đi theo hướng của mình.
Ta
cần hiểu
metta
từ nguồn gốc kinh tạng Pali, đầu tiên chính là từ từ ngữ đó. Trong ngôn
ngữ Pali,
pema mới có nghĩa là tình thương, trong khi
metta, liên hệ với từ
mitta, có nghĩa là bạn. Đức Phật không khuyên ta phát triển tình
yêu phổ quát (universal pema) – vì Ngài biết là tình thương yêu có thể
dễ dàng đưa đến hận thù khi người ta thương yêu bị người khác đối xử tệ
- nhưng Đức Phật khuyên ta nên phát triển tình bạn phổ quát (universal
metta): sự thân thiện cho tất cả mọi người. Sự thân thiện được coi như
thiện ý qua bốn đoạn trong kinh tạng khi Đức Phật ban cho ta những câu
để ghi nhớ trong tâm khi phát triển những tư tưởng từ bi. Các câu này
cho ta những hướng dẫn rõ rang nhất của Ngài không chỉ về các cảm xúc
cao đẹp hàm chứa trong
metta, mà cũng khuyên ta cần phải hiểu ý nghĩa của hạnh phúc,
giúp ta hiểu tại sao việc phát triển lòng từ đến với tất cả mọi người là
điều khôn ngoan và thực tế.
Nhóm
câu đầu tiên này ở trong đoạn kinh khi Đức Phật khuyên ta nên có những
suy tư như thế nào để chống lại với ác ý. Các câu kệ này được tụng đọc
mỗi ngày trong các cộng đồng Nguyên thủy ở khắp nơi trên thế giới:
“Mong cho tất cả mọi chúng sinh – không thù oán, không bị áp bức, không
phiền não – dễ dàng tự chăm sóc mình”2.
– AN 10:176.
Hãy
xem xét câu cuối cùng: “Mong là họ dễ dàng tự chăm sóc mình”. Ta không
nói là ta sẽ luôn có mặt bên tất cả mọi chứng sanh. Hơn nữa đa số đều sẽ
cảm thấy hạnh phúc hơn khi biết rằng họ có thể dựa vào bản thân hơn là
dựa vào người khác. Có lần tôi nghe một vị giảng sư nói rằng ông không
muốn sống nơi không có khổ đau, vì như thế thì ông không thể hiện được
tâm từ bi của mình – là một ước muốn cực kỳ ích kỷ, nếu bạn suy xét thấu
đáo về nó. Ông ta muốn người khác khổ đau để ông có thể vui vì được thể
hiện tâm bi mẫn? Một thái độ tốt hơn sẽ là, “Mong cho mọi chúng sanh đều
được hạnh phúc. Mong cho họ có thể tự lo cho mình được bình an”. Như
thế họ có thể hưởng hạnh phúc của sự tự túc và độc lập.
Một
số câu kệ từ bi khác ở trong kinh
Từ bi Karaniya.
Bài kệ mở đầu bằng ước muốn được hạnh phúc giản đơn:
Không bỏ sót một hữu tình nào
Kẻ ốm yếu hoặc người khỏe mạnh
Giống lớn to hoặc loại dài cao
Thân trung bình hoặc ngắn, nhỏ, thô.
Có hình tướng hay không hình tướng
Ở gần ta hoặc ở nơi xa
Đã sanh rồi hoặc sắp sanh ra
Cầu cho tất cả đều an lạc.
Bài
kệ lại tiếp tục mong cầu là mọi chúng sanh đều tránh khỏi mọi nguồn gốc
của khổ đau:
Với ai và bất luận ở đâu
Không lừa dối chẳng nên khinh dễ
Lúc căm hờn hoặc khi giận dữ
Đừng mưu toan gây khổ cho nhau.
Khi
đọc tụng các câu kệ này, ta không chỉ mong chúng sanh được hạnh phúc, mà
còn mong là họ tránh được những hành động đưa đến ác nghiệp, đưa đến
khổ đau cho bản thân. Ta nhận thấy rằng hạnh phúc phải dựa vào hành
động: Người muốn tìm hạnh phúc chân thực, phải hiểu nhân của hạnh phúc,
và hành theo đó. Họ cũng phải hiểu rằng hạnh phúc thực sự không đem lại
tai hại. Nếu hạnh phúc dựa trên điều gì có hại cho người khác, thì nó
không vững bền. Người bị hại chắc chắn sẽ tìm cách để trả đũa, để phá
hoại hạnh phúc đó. Ngoài ra sự cảm thông còn có đặc tính hiển nhiên như
sau: nếu ta thấy người khác khổ đau, ta cũng đau xót. Nếu ta có chút cảm
xúc nào, ta khó có thể cảm thấy hạnh phúc khi ta biết rằng hạnh phúc của
mình đang gây đau khổ cho người khác.
Vì
thế, khi bày tỏ thiện ý, ta không nói rằng ta sẽ luôn có mặt ở đó với
họ. Ta mong rằng tất cả chúng sanh sẽ khôn ngoan để biết tự lực, tự tìm
hạnh phúc cho bản thân.
Kinh
Tâm từ còn tiếp tục nói rằng khi ta phát triển thái độ này, ta
muốn bảo vệ nó như người mẹ bảo vệ đứa con duy nhất của mình.
Như mẹ hiền thương yêu con một
Dám hy sinh bảo vệ cho con
Với muôn loài ân cần không khác
Lòng ái từ như bể như non.
Không vuớng mắc, oán thù, ghét bỏ.
Nhiều người hiểu lầm đoạn kệ này – nghĩ rằng Đức Phật khuyên ta phải
thương yêu tất cả chúng sanh giống như cách người mẹ thương đứa con duy
nhất của mình. Nhưng thật ra Đức Phật không thực sự nói thế. Trước hết
Đức Phật không hề nói đến từ “thương yêu” (cherish) ở đây. Và thay vì
đối xứng giữa việc bảo vệ đứa con duy nhất và bảo vệ các chúng sanh
khác, Ngài lại đối xứng giữa việc bảo vệ con và bảo vệ thiện ý của mình.
Điều này tương ưng với những lời dạy khác của Ngài trong kinh tạng.
Không có nơi nào trong kinh tạng Ngài khuyên chúng ta bỏ thân mạng để
chống lại mọi điều ác, điều bất công trên thế giới, nhưng Ngài tán thán
các đệ tử khi họ sẵn lòng từ bỏ mạng sống cho giới luật:
“Giống như biển lặng, không nhấn chìm sóng biển, các đệ tử của ta cũng
không – dầu có bỏ thân mạng – nhấn chìm các giới luật mà ta đã đề ra cho
họ”3.
– Ud 5:5.
Những câu này cũng mang một thông điệp, một tình cảm tương tự: rằng ta
cần phải dốc lòng vun trồng và bảo vệ thiện ý của mình để bảo đảm rằng
các ý hướng thiện của ta không lay chuyển. Vì ta không muốn làm hại đến
ai. Điều ác có thể dễ dàng xảy ra khi lòng từ của ta bị lay chuyển, vì
thế ta cần phải làm bất cứ điều gì để luôn bảo vệ thái độ này. Đó là lý
do tại sao, khi Đức Phật nói ở cuối bài kinh rằng ta cần phải quyết chí
thực hành loại chánh niệm này: chánh niệm để ghi nhớ trong tâm ước muốn
mọi chúng sanh đều được hạnh phúc, để bảo đảm rằng tất cả mọi hành động
của ta đều vì mục đích này.
Đó
là lý do tại sao Đức Phật khuyên ta phải phát triển các thiện ý trong
hai trường hợp đặc biệt quan trọng – và đặc biệt khó – để duy trì ý
hướng thiện: khi người khác làm hại ta, hay khi ta cố ý làm hại người
khác.
Nếu
kẻ khác hại ta bằng lời nói hay hành động – “ngay
như những kẻ đạo
tặc hạ liệt, dùng cưa hai lưỡi mà cưa tay, cưa chân;” –
Đức
Phật khuyên ta luyện tâm như thế này:
“Ta sẽ giữ tâm không biến nhiễm; ta sẽ không nói lời ác độc. Ta sẽ duy
trì sự thông cảm, với tâm từ, không có nội tâm sân hận. Ta sẽ luôn rãi
tâm từ đến họ, bắt đầu từ họ, ta sẽ rãi tâm từ khắp thế giới – quảng
đại, vô biên, không hận, không sân”4.
– MN 21.
Khi
làm được như thế, Đức Phật bảo rằng, ta đã khiến tâm ta bao la như sông
Hằng hay rộng lớn như trái đất – nói cách khác, nó lớn hơn các ác hại mà
những kẻ kia đang làm hay đe dọa sẽ làm với ta. Chính Đức Phật đã áp
dụng giáo lý này nơi bản thân sau khi Devadatta mưu toan giết hại Ngài.
Như khi Ngài nói với Ma vương – người đến để chế ngạo Ngài khi Ngài đang
an dưỡng vết thương – “Ta
nằm xuống với lòng thương xót muôn loài”5.
(SN 4:13).
Khi
ta có thể duy trì tâm rộng mở trong lúc đau đớn, cái người khác hại ta
không còn quá sức chịu đựng, và ta khó lòng phản ứng một cách tiêu cực.
Ta bảo vệ – cho bản thân và cho người – khỏi bất cứ hành vi tiêu cực nào
mà ta có thể làm.
Còn
đối với những khi ta cố ý làm hại người, Đức Phật nhắc nhở ta phải nhớ
rằng việc sám hối không thể thay đổi cái ác, nên nếu cần xin lỗi, ta xin
lỗi. Trong bất cứ hoàn cảnh nào, ta phải quyết không lặp lại hành động
ác đó nữa. Sau đó rãi tâm từ đến muôn nơi.
Việc
này giúp ta thành tựu một số điều. Nó nhắc nhở ta về sự thiện lành của
bản thân để ta không –nhằm bảo vệ tự ngã – quay trở lại việc không chấp
nhận mình đã làm điều gì tai hại. Nó làm mạnh thêm quyết tâm không làm
hại ai. Và nó buộc ta phải quán sát hành động của mình để thấy được ảnh
hưởng thực sự của chúng: nếu ta có những thói quen gây tai hại, ta nên
buông bỏ chúng trước khi chúng gây tổn hại thêm. Nói cách khác, ta không
muốn thiện ý của ta chỉ là một ý nghĩ buông lung, mơ hồ. Ta muốn ứng
dụng nó rốt ráo, từng li từng tí vào tất cả mọi giao tiếp với người. Như
thế thiện ý của ta mới chân thật. Và nó thực sự có ảnh hưởng, đó là lý
do khiến ta phát triển thái độ này ngay từ buổi đầu: để bảo đảm rằng nó
thực sự cổ vũ cho tư duy, lời nói và hành động của ta hầu dẫn đến hạnh
phúc, vô hại cho tất cả.
Cuối
cùng có một đoạn kinh trong đó Đức Phật dạy các đệ tử tụng để rãi tâm
từ đến tất cả loài rắn và các loài bò sát khác. Chuyện là có một vị tu
sĩ hành thiền trong rừng và bị rắn cắn chết. Các vị đệ tử khác đem
chuyện này kể lại với Đức Phật và ngài trả lời rằng nếu vị tu sĩ kia đã
rãi tâm từ đến tất cả bốn đại gia đình của loài rắn, thì con rắn nọ đã
không cắn ông. Lúc đó Đức Phật dạy các vị đệ tử một bài kệ bảo vệ để rãi
tâm từ không chỉ đến với loài rắn, mà còn cho tất cả mọi chúng sanh.
Ta hãy có từ tâm
Với các loài không chân,
Ta hãy có từ tâm
Với các loài hai chân,
Ta hãy có từ tâm
Với các loài bốn chân,
Ta hãy có từ tâm
Với các loài nhiều chân.
Mong rằng loài không chân
không có làm hại ta.
Mong rằng loài hai chân
không có làm hại ta.
Mong rằng loài bốn chân
không có làm hại ta.
Mong rằng loài nhiều chân
không có làm hại ta.
Mong chúng sanh, hữu tình
Toàn thể mọi sinh vật,
Mong chúng thấy hiền thiện,
Chớ đi đến điều ác.
Đức Phật là vô lượng, Pháp là vô lượng, chúng Tăng là vô lượng.
Có lượng là loài bò sát: rắn, bò cạp, rết, nhện, cắc ké & chuột. Ta đã
làm sự hộ trì. Ta đã làm sự che chở. Mong các loài hữu tình sẽ bỏ đi.
6
AN 4:67.
Câu
cuối cùng trong bài kệ về tâm từ này cho thấy sự thật là việc chung sống
cùng nhau với mọi loài thường mang lại khó khăn – nhất là khi chúng sinh
thuộc nhiều giống loài có thể xâm hại nhau – và phương cách tốt đẹp nhất
cho tất cả những loài có liên quan là sống xa cách, không xâm hại nhau.
Những cách thể hiện lòng từ khác nhau này cho ta thấy tâm từ không nhất
thiết là tính chất của tình thương yêu. Tâm từ tốt hơn nên được coi như
là thiện ý, vì hai lý do. Đầu tiên vì thiện ý là thái độ mà ta có thể
thể hiện với tất cả mọi người mà không sợ phải mang tiếng là đạo đức giả
hay thiếu thực tế. Không phải vì ta giúp đỡ mà người khác hạnh phúc, họ
sẽ thực sự hạnh phúc hơn nếu đó là kết quả của chính hành động thiện xảo
của họ. Hạnh phúc của sự tự lực lớn hơn bất cứ thứ hạnh phúc nào đến từ
sự phụ thuộc.
Lý
do thứ hai, thiện ý là một cảm xúc khôn ngoan để đối phó với những người
có thái độ vô ơn đối với sự tử tế của ta. Có thể có những người bạn đã
xâm hại trong quá khứ nên họ không muốn có bất cứ liên hệ nào với bạn,
vì thế sự thân thiết, thương yêu của bạn thực ra là nguồn gốc khổ đau
cho họ, hơn là niềm vui. Cũng có những người khi thấy bạn muốn thể hiện
tình thương yêu đến với họ, thì họ nhanh chóng lợi dụng bạn. Và cũng có
rất nhiều sinh vật trên đời sẽ cảm thấy bị đe dọa bởi sự biểu lộ tình
cảm quá ào ạt của con người. Trong những trường hợp này, một cảm nhận từ
xa về thiện ý của ta – rằng ta tự nguyện không xâm hại những người này
hay những chúng sanh này – sẽ tốt hơn cho tất cả mọi người liên quan.
Như
thế không có nghĩa là tình thương yêu không bao giờ là một thể hiện phù
hợp của thiện ý. Đơn giản là bạn phải biết khi nào nó phù hợp và khi
nào không. Nếu bạn thực sự có lòng từ đối với bản thân hay với người,
thì bạn không thể để ước muốn được thân mật, được có cảm giác ấm áp,
thương yêu, khiến bạn quay lưng lại với những gì thực sự là phương cách
hoàn hảo nhất để mang hạnh phúc chân thật đến cho tất cả.
Diệu Liên Lý Thu Linh
(Chuyển ngữ từ "Metta Means Goodwill", Nguồn:
Access to Insight (Legacy Edition),
24 November 2013)
1
Saṃyutta Nikāya – Tương
ưng bộ kinh – HT Thích Minh Châu dịch Việt.
2
Aṅguttara Nikāya – Tăng
chi bộ kinh – HT Thích Minh Châu dịch Việt.
3
Udana: Kinh Phật tự thuyết.
4
Majjhima Nikāya – Trung bộ kinh.
5
Saṃyutta Nikāya – Tương ưng bộ kinh.
6 Kinh
Tăng chi bộ, chương Bốn pháp (6-10), HT Thích Minh Châu dịch Việt,
Thư Viện Quảng Đức.