Qua
cuộc thiên tai và nhân tai nầy, thế giới đã chứng kiến sức sống phi
thường của người dân Nhật, cũng như nhìn thấy sự mong manh của một nền
văn minh. Đó cũng là dịp để chúng ta chiêm nghiệm tính chất phù du, vô
thường của đời sống.
Đời
sống ngắn ngủi và mong manh. Thế giới biến dịch vô thường. Được mất, tụ
tán là tính chất của thế gian. Cả thế gian như lúc nào cũng lăn xăn tìm
chỗ trốn tránh khổ đau, trong vật chất hay trong tinh thần, trong bước
chân mò mẫm đi tìm thực tại hay trong trí tưởng tượng mơ hồ để xoa dịu
sợ hãi, khổ đau…
Trong
khung cảnh đó, hơn hai ngàn năm trăm trước, đức Phật xuất hiện ở thế
gian để xác quyết cho loài người rằng đời là khổ và có con đường chân
thật để thoát khổ. Và con đường thoát khổ không phải tìm đâu xa, mà ngay
tại nơi đây và bây giờ, trong trái tim của mỗi người.
Đức
Phật là người đầu tiên khuyên con người hãy nhìn thẳng vào tính chất
của đời sống. Đó là con đường Trung Đạo, con đường không chạy theo cũng
không trốn tránh đời sống, con đường đồng hành với đời sống mà không để
bị đời sống nhận chìm. Với đạo Phật, đời sống có chất liệu để cho hoa
sen vươn lên bầu trời, có sức đẩy để cho chiếc bè tự do nổi được và vươn
ra đại dương. Kinh Pháp hoa nói rằng tháp Đa bảo bảy báu nổi lên ngay từ mặt đất nầy, vô số hằng sa Bồ tát xuất thân ngay từ cõi ta bà nầy.
Do
đó, Khổ, một trong bốn chân lý đầu tiên được đức Phật nhìn thấy và nói
ra, cũng là chất liệu để con người vươn lên. Càng đối diện, càng thấm
nhập vào tính chất vô thường, vô ngã của mọi hiện tượng, càng thâm hiểu
được ý nghĩa đích thực của đời sống, cũng là lúc con người tiến sâu vào
tính vắng lặng của Niết bàn, vào sự ấm áp trong mối tương liên của vạn
pháp. Bà Pema Chodron viết:
“Lòng
ấm áp tự nhiên khởi lên khi chúng ta trải qua kinh nghiệm khổ với tất
cả những tính chất đẹp đẽ của con tim: tình thương, tâm bi mẫn, lòng
biết ơn, sự đồng cảm dưới mọi hình thức. Nó cũng chứa nỗi cô đơn, đau
khổ và sợ hãi. Trước khi những tính chất tốt đẹp không bền vững nầy được
làm cho bền vững, trước khi có những thứ khác xen vào, những cảm nhận
đến tự nhiên nầy được thai nghén với lòng lân mẫn, đón nhận và quan tâm.
Những cảm nhận mà chúng ta đã cố ý lẫn tránh nầy có thể làm cho lòng
chúng ta mềm lại và chuyển hóa chúng ta. Sự mở lòng ra cho sự ấm áp tự
nhiên đôi khi dễ chịu, đôi khi gây khó chịu. Tu tập là không lẫn tránh
những cảm nhận không ưa thích khi chúng khởi lên. Qua thời gian, chúng
ta có thể ôm ấp chúng như những cảm nhận êm ả của tâm từ và lòng biết ơn
chân thật. (Sự Ấm Áp Tự Nhiên).”
Đối
diện với khổ, với tính chất phù du vô thường của thế gian, cũng là đối
diện với chính mình, nhìn thấy chính mính. Nhìn thấy chỉ thật sự là nhìn
thấy khi trong và ngoài hợp nhất, khi không có sự xen vào của tâm phân
biệt. Đó là Trung Đạo, là con đường giữa, con đường không nghiêng lệch.
Chánh tri kiến là trở về với tâm mình, dừng lại mọi niệm tưởng để thấy
được Pháp thân. Chánh tư duy là trở về với tâm mình, dừng lại mọi phân
biệt, để tư duy không bị nghiêng lệch. Chánh ngữ là trở về tâm mình,
dừng lại mọi hí luận và biết rằng mọi ngôn ngữ đều hàm hồ, khiếm khuyết…
Mọi sự ngăn ngại đều xuất phát từ tâm, mọi chia cắt, phân biệt, mọi gập ghềnh của đời sống đều xuất phát từ tâm. Tâm dẫn đầu các pháp.
Dưới
con mắt của đạo Phật, sự khổ mà con người cảm nhận khi đối diện với
tính chất phù du, vô thường của đời sống, với tiến trình sinh lão bịnh
tử, thành trụ hoại không của vạn vật đều phát khởi từ tâm. Những tính
chất kia của đời sống vốn không có nội hàm khổ hay vui. Chúng chỉ biến
thành khổ hay vui khi được chiếu rọi qua tấm kính của tâm, bám víu hay
buông bỏ, chạy theo hay dừng lại. Và nhìn một cách tổng thể, đời sống
của con người và của mọi sự vật giống như một lần nhô lên và chìm xuống
của một làn sóng. Làm gì có khổ hay vui trong những làn sóng đó.
Với
đạo Phật, để thấy được tính chất như thật của đời sống, để giải thoát
khổ đau do chính mình tạo ra, con người phải can đảm đối diện với đời
sống.
Thường xuyên đối diện với sự đe dọa của thiên tai, sóng gió và núi lửa, người Nhật đã sớm có ý niệm coi đời sống mong manh như những cánh hoa anh đào.
Có
người nói rằng trong mỗi tâm hồn cùa người Nhật đều có những cánh hoa
anh đào. Vâng. Trong mỗi con người Nhật đều có bóng dáng hoa anh đào và
Zen. Hoa anh đào và Zen bàng bạc trong truyện, trong phim, trong võ đạo,
kiếm đạo, hoa đạo, trà đạo, thi đạo… Hoa anh đào và Zen là cái nền mỹ
quan của người Nhật, cũng là sức mạnh để người Nhật đối diện và vượt qua tính chất vô thường, phù du, như có như không của thân phận làm người.
Với người Nhật, hoa anh đào được hình dung như những đám mây. Khi hoa nở thì cả không gian như phủ bằng những tầng mây hồng ngun ngút. Mây thì tụ tán phù du, đến đi vô định. Trong một bài hát có tên “Hoa anh đào hoa anh đào (sakura sakura)” chúng ta đọc được những câu như sau:
Hoa anh đào, hoa anh đào,
Trải dài ngút mắt
Trên núi đồi.
Là sương mù hay là mây?
Thơm ngát trong ánh mặt trời buổi sáng.
Hoa anh đào, hoa anh đào,
Hoa anh đào đang nở rộ.
Hoa anh đào, hoa anh đào,
Xuyên suốt bầu trời mùa Xuân,
Trải dàì ngút mắt.
Là sương mù hay là mây?
…
Là sương mù hay là mây? - Chẳng phải sương mù cũng chẳng phải mây. Là hoa anh đào, là hình ảnh của phù du chóng vánh, tụ tán vô thường. Như mây, như sương, như điện, như chớp.
Tính chất phù du, chóng tàn của mọi hiện tượng trong đời sống đó được thể hiện trong ý niệm mono no aware của người Nhật. Mono no aware
là sự cảm thương trước tính chất vô thường của mọi sự vật, mọi hiện
tượng. Cảm thương với tính chất vô thường của cuộc sống cũng là đối diện
với tính chất cô đơn của mỗi con người, đối diện với vực sâu thăm thẳm
trong tâm của mỗi con người, đồng thời cảm nhận sự kết nối vô cùng với
mọi người, mọi sự trong vũ trụ. Và cái đẹp của vô thường là tính chất
cảm thương, kết nối nầy. Hoa anh đào nở ngút ngàn, rồi rơi rụng ngút
ngàn. Đứng trước trời đất đó, tâm làm sao không cảm khái với cái vô cùng
của không gian và thời gian, với sự biến thiên của đất trời, lịch sử.
Khi
hoa anh đào nở rộ cũng là lúc xác hoa bắt đầu trải hồng mặt đất. Người
ta thưởng thức cái đẹp của hoa anh đào bao nhiêu, thì người ta cũng trân
trọng với những bước chân dẫm trên những xác hoa. Nở đẹp và tàn cũng
đẹp. Chết và sống như nhau. Và thật sự người Nhật đã coi cái chết như
lông hồng, như hoa rơi, cũng như đã coi cuộc sống là nơi để vẽ nên một
bức tranh đẹp cho cuộc đời, dù đó là cái đẹp u hoài.
Nước
Nhật là một trong những nước có nền khoa học kỹ thuất tiên tiến bậc
nhất thế giới, có một nền nghệ thuật cũng thuộc loại dẫn đầu thế giới,
nhưng dường như tâm hồn của người Nhật là những tâm hồn u hoài. Đọc
những tác phẩm của người Nhật, xem những cuốn phim về nước Nhật, chúng
ta cảm nhận điều đó. U hoài không phải là buồn khổ mà có thể là một cảm
giác như ngài Tsoknyi Rinpoche viết:
“Khi
mặt trời lặn ở phương tây, nếu chúng ta bước ra bên ngoài và ngồi
xuống, hướng về phía mặt trời đang lặn, một cảm giác từ bi sẽ khởi lên
một cách dễ dàng, tự phát. Đó là thứ tự do với một chút vui, một chút
nhạy cảm, một chút buồn. Tất cả đều tự đến. Nếu chúng ta không hoàn toàn
mở rộng và tâm không được giải phóng khỏi những điên đảo, nỗi buồn nhẹ
nhàng nầy sẽ không được cảm nhận một cách chân thật, ngay cả không được
nhận biết. (Nước Từ Bi)”
Và tính chất mono no aware không thể thành tựu nếu không có Zen.
Zen
phát xuất từ Thiền Đông Độ, tức Thiền của ngài Bồ Đề Đạt Ma được ngài
Huệ Năng phổ vào một sức sống thần kỳ tươi mát, truyền vào và phát triển
ở Nhật. Và nguồn cảm hứng của Zen là satori.
Satori là sự bừng tỉnh về tính chất không sinh không diệt, không tăng không giảm của mọi hiện tượng vô thường, và vì vậy satori là tâm vô niệm trước vô thường. Vô niệm là không khởi tâm, không bám giữ, không trôi theo, cũng không quên lãng.
Zen
đã thấm nhập vào đời sống của người Nhật trong hầu hết các ngành nghệ
thuật hay đạo. Với sự thức tỉnh, với sự mở ra cho sự kết nối, cảm thông,
thương cảm trước những hiện tượng vô thường, những cung bậc tâm hồn
trong suốt và nhạy cảm được phổ vào làm nền cho đời sống, nâng những cái
tầm thường của đời sống thành nghệ thuật, thành cái đẹp. Cái đẹp của
người Nhật là cái đẹp của sự cảm nhận về tính chất vô thường. Đó là chấp
nhận vô thường, là wabi-sabi, chấp nhận tính chất phù du của vạn vật.
Với
Zen, nhận chân được sự tịch tĩnh của vô thường là bước đầu của ngộ, tức
satori. Cái đẹp của người Nhật là cái đẹp chưa hoàn tất, đang đổi thay
và không toàn hảo. Đó
là cái đang còn lưu chảy trong dòng vô thường bất tận. Sống và chết,
hợp và tan, nở và tàn đều đẹp. Sống và chết đều thơ mộng như nhau. Đến
một mình rồi ra đi một mình, như những kiếm sĩ giang hồ, như thi sĩ
haiku Basho. Cô đơn và đối diện với cô đơn. Đó là một sự cô đơn mầu nhiệm, nói như bà Pema Chodron:
“Khi
có thể dừng lại ở điểm giữa, trung đạo, chúng ta bắt đầu có một sự kết
nối không sợ hãi với cô đơn, một sự cô đơn dịu dàng và mầu nhiệm chuyển
hóa hoàn toàn mọi sợ hãi của chúng ta.
Sự
cô đơn đó cho phép chúng ta nhìn vào tâm chúng ta một cách trung thực,
không vướn ngại. Chúng ta sẽ dần dần dừng lại ý tưởng về mẫu người mà
chúng ta nghĩ chúng ta phải là. Chúng ta xả bỏ mọi ý niệm và chỉ nhìn
thẳng vào chúng ta với lòng từ bi và con mắt khôi hài. Từ đó, cô đơn sẽ
không còn là một sự đe dọa, đau buồn hay trừng phạt.
Sự
cô đơn mầu nhiệm không đem đến cho chúng ta bất cứ một sự giải quyết
nào, cũng không cho chúng ta một điểm tựa nào. Nó thách thức chúng ta
bước vào một thế giới không có điểm qui chiếu. Đó gọi là con đường giữa,
trung đạo, con đường thiêng liêng của người chiến sĩ.
(Sự Cô Đơn Mầu Nhiệm Pema Chodron)”
Nhiều
người cho rằng vì đời sống của người Nhật bị nhiều sức ép nên mức độ tự
tử của họ nhiều nhất thế giới, có nghĩa là sự thoả mãn đối với đời sống
của người Nhật thấp hơn sự thoải mãn về đời sống của người dân các nước
khác trên thế giới. Điều nầy có thể đúng. Nhưng như thế không có nghĩa
là người Nhật hưởng niềm vui và coi giá trị của đời sống thấp hơn những
người dân xứ khác.
Hơn
nhiều dân tộc khác trên thế giới, người Nhật đạt đến mức độ cao trong
việc tiếp cận, triển khai và thưởng ngoạn cái đẹp của đời sống. Hầu như
trong mọi phương diện của đời sống, người Nhật đều nhìn thấy cái đẹp,
ngay cả sự chết. Họ biết dừng lại trong vô thường để chiêm ngưỡng đời
sống cũng như sự chết.
Có
thể nói Basho là một điển hình của tâm hồn Nhật. Ông là tổ của thơ
Haiku, một nhà thơ mà cuộc đời gắn liền với những cuộc hành trình. Chứng
kiến bao cuộc chia ly, trải nghiệm bao cuộc đổi dời của thế sự và vạn
vật, không biết từ lúc nào ông đã nhìn thấy được tính chất chân thật của
vô thường, để từ đó, mỗi phút giây của ông là mỗi phút giây mới mẻ, để
có lần, nhìn một thác nước từ trên cao, ông reo lên:
chỉ một lần
nơi thác nước
mùa hè vừa đến
Và
khi đã một lần nhìn thấy phút giây đó rồi thì mỗi sát na là một đời
sống mới, và lúc ra đi cũng nhẹ nhàng như cánh hoa đào rơi trong nắng
Xuân. Ông nhuốm bịnh trên đường và từ giả cõi đời nấy để tiếp tục cuộc hành trình vui chơi nhìn ngắm vô thường ở một thế giới nào đó sau một giấc mơ đẹp:
nhuốm bịnh trên đường lữ khách
tôi mơ cánh đồng khô
đang chạy nhảy.
Thị Giới.