Động tàng kinh - kho báu vô giá
Mạc Cao Quật ở Đôn Hoàng, Cam Túc là một trong những kho báu về nghệ
thuật trên thế giới. Nó lưu giữ tới hàng ngàn pho tượng Phật điêu khắc
lớn nhỏ, những bức bích họa lớn tới mười mấy vạn mét vuông. Nó hiển thị
trước thế giới về trí tuệ cao và tài năng tuyệt vời của nhân dân lao
động Trung Quốc thời cổ.
Ở Mạc Cao Quật còn có một Động tàng kinh nổi tiếng, trong đó lưu giữ
kinh Phật, cổ họa, hộ tịch, khế ước, tiểu thuyết, từ khúc cùng một lượng
lớn đồ dệt tơ, di vật. Tổng số khoảng hơn 5 vạn thứ được tích lũy qua
hơn 10 triều đại, từ đời Tấn đến đời Tống. Đa số thư tịch được viết
bằng Hán văn, cũng có một số viết bằng văn tự các dân tộc thiểu số. Tất
cả đều được đóng theo kiểu có trục cuốn, từng cuốn từng cuốn chất cao
như núi.
|
Một bức bích họa ở Mạc Cao Quật |
Động tàng kinh trước đây bị đóng kín suốt, chẳng ai biết được bên trong
lại có nhiều báu vật như vậy. Cho đến năm thứ 24 Quang Tự triều Thanh
(năm 1900), Động tàng kinh mới được người ta phát hiện. Khi ấy đúng vào
thời kì Phong trào Nghĩa Hòa Đoàn, cả nước bạo loạn rối ren. Sau khi
Động tàng kinh được phát hiện, người Trung Quốc chưa kịp tiến hành thẩm
tra phân loại, chỉnh lí, bảo quản, nghiên cứu các vật báu trong số đó
thì những người ngoại bang đã nhanh chân hơn, đua nhau đến đó lấy trộm
đi những di vật quí báu được cất giữ trong động.
Stein của Anh, Paul Pelliot của Pháp, E Goldenberg của Nga và Langdon
Warner của Mĩ lần lượt lấy trộm đi tổng số khoảng hơn 2 vạn di vật. Chỉ
một mình Stein thôi cũng đã lấy trộm hoặc lừa mang đi mất 24 hòm sách
và 5 hòm tranh cùng đồ dệt tơ. Langdon Warner thì không chỉ lấy trộm
đi các di vật ở Động tàng kinh, mà còn dùng băng keo hóa chất đặc biệt
để dán vào bóc đi mất 26 bức bích họa tinh xảo đời Đường trong Mạc Cao
Quật. Việc phát hiện ra Động tàng kinh ở Mạc Cao Quật vừa là một phát
hiện lớn về khảo cổ học cận đại Trung Quốc, lại vừa cũng là một đại nạn
cho các di vật của Trung Quốc.
Động tàng kinh bị bít kín mít suốt như thế, vậy thì nó đã được phát hiện
và được mở ra như thế nào? Rồi thuở trước vì sao và từ khi nào đã bị
bít kín như thế? Hai ẩn số này, ẩn số đầu giải đáp khá dễ, còn ẩn số sau
thì cho đến nay vẫn chưa thể định luận.
Ai phát hiện ra Động tàng kinh?
Do ở Đôn Hoàng bão cát rất lớn, ở Mạc Cao Quật cứ cách ít bữa lại phải
dọn sạch một lần cát đọng. Nghe nói, vào một ngày nào đó thuộc năm Quang
Tự thứ 26, khi người ta đang dọn sạch cát đọng trên Quật Dũng Đạo thứ
16, chẳng may vấp phải một bức tường bên cạnh, rồi phát hiện thấy trên
tường có một cánh cửa nhỏ đóng kín, trên cửa có vẽ bích họa để che, nếu
không để ý sẽ rất khó phát hiện. Người ta gạt khẽ lớp bùn đất trên
cánh cửa đang đóng rồi mở ra, bên trong là một chiếc động lớn tới gần
20 m3, trong động bày đầy sách cuộn, kinh Phật là chính, cùng các di
vật khác, vì thế mà gọi động mới được phát hiện này là Động tàng kinh.
Cũng có người nói, việc phát hiện ra Động tàng kinh có liên quan đến
một đạo sĩ tên là Vương Viên Lục. Một ngày năm Quang Tự thứ 25 (năm
1899), Vương đạo sĩ dùng nước xối rửa cát đọng trong hang động, phát
hiện thấy trên vách hang số 16 có một lỗ nhỏ, hình như có ánh sáng. Thế
là ông liền nậy vỡ và phát hiện ra Động tàng kinh. Thuyết pháp này có
thể đọc trên bia mộ Vương đạo sĩ, niên đại phát hiện sớm hơn thuyết pháp
nói trên 1 năm. Nhưng gần đây có người đã phủ định thuyết pháp này,
cho rằng trong Mạc Cao Quật toàn là bích họa, sao mà dùng nước xối rửa
được. Mà bia mộ lại là do phe cánh của ông ta dựng nên, qui công phát
hiện Mạc Cao Quật cho Vương đạo sĩ. Đó là để ca công tụng đức thay cho
sư phụ của họ.
Còn có một thuyết pháp khác nữa cho rằng Động tàng kinh là do viên thủ
thư Dương Mỗ mà Vương đạo sĩ thuê về để chép kinh Phật phát hiện ra. Khi
Dương Mỗ chép kinh ở hàng số 16, vừa chép vừa hút thuốc. Ông ta dùng
que cỏ (nguyên văn: “thảo côn”- ND) châm lửa, châm xong tiện tay vứt que
cỏ tọt vào khe trong hang đá, thế là phát hiện ra cái khe ấy được
trát bằng vữa bùn, khoét rộng cái khe ấy ra thấy bên trong là một động
tàng kinh.
Sau khi Động tàng kinh được phát hiện, dân chúng khi ấy vẫn còn chưa
biết được nhưng thứ lưu giữ trong động đều là những báu vật vô giá được
tích lũy lại trong lịch sử, nên đã lại bít kín động lại. Ít lâu sau,
có một người Anh tên là Stein đi du lịch tới Đôn Hoàng, là học giả
trên danh nghĩa, nhưng kì thực ông ta là một kẻ trộm báu vật có lòng
tham không đáy. Vương đạo sĩ đã tiết lộ bí mật của Động tàng kinh cho
ông ta biết. Stein vì đã bỏ ra ít tiền cho Vương đạo sĩ mà mang đi
được một ít kinh quyển được lưu giữ trong động. Sau đó, Stein còn đến
liên tục, mỗi lần đến lại lừa đem đi không ít di vật trong động. Sở
thích của Stein ngày càng lớn, về sau đã phát triển tới mức vận chuyển
đi hàng thùng. Dĩ nhiên là mỗi lần tới ông ta đều đưa cho Vương đạo sĩ
một ít tiền, nhằm mua chuộc cái con người vừa ngu si vừa tham lam này.
Tiếp đến, Paul Pelliot của Pháp, E Goldenberg của Nga và Langdon Warner
của Mỹ cũng nghe tin đua nhau tới. Họ cũng đã lấy trộm mất một số lượng
lớn báu vật trong Động tành kinh cùng các di vật khác của Mạc Cao
Quật. Động tàng kinh đã gặp phải đại nạn như vậy đó.
Vì sao Động tàng kinh bị bít kín?
Vậy thì trước đây Động tàng kinh đã bị bít kín khi nào và vì sao? Bởi
niên đại đã quá lâu, nên ẩn số này cho đến nay vẫn chưa được giải đáp.
Có những học giả qua phán đoán về niên đại của các di vật lưu giữ trong
động đã cho rằng Động tàng kinh được bít kín vào thời Bắc Tống, bởi vì
trong động không thấy có những vật lưu giữ sau thời Bắc Tống. Họ cho
rằng nguyên nhân Động tàng kinh bị bít kín là để phòng ngừa quân Tây Hạ
xâm nhập. Năm Tống Nhân Tông Cảnh Hựu thứ 2 (năm 1035), người Tây Hạ
tấn công Đôn Hoàng, các sư tăng ở Mạc Cao Quật trước khi bỏ chạy, đã
đưa tất cả kinh sách, văn thư cùng các di vật khác vào trong động và
bít kín lại. Các sư tăng vân du bốn biển, một đi không trở lại, người
đời sau cũng không biết gì về Động tàng kinh này, vì thế mà động đã bị
bít kín suốt tới gần 900 năm.
Có những học giả tuy cũng thừa nhận động bị bít kín từ thời Bắc Tống,
nhưng lại cho là không liên quan đến sự xâm nhập của Tây Hạ, mà là liên
quan đến Vương triều Ca La Hãn. Người Tây Hạ cũng tôn thờ Phật giáo,
nên các sư tăng sẽ không sợ họ, không việc gì phải bỏ chạy. Còn Vương
triều Ca La Hãn là một vương quốc tôn thờ đạo Hồi nằm ở vùng Tân Cương,
cũng thường xuyên gặp phải sự quấy nhiễu của Tây Hạ. Giữa những năm
Tống Triết Tông Chiêu Thánh (năm 1094 – 1097), Vương triều Ca La Hãn
yêu cầu liên minh với triều Tống, cùng nhau xuất binh dánh giáp công
Tây Hạ. Phật giáo coi đạo Hồi là dị giáo, thường xuyên công kích nhau.
Tin Vương triều Ca La Hãn yêu cầu liên minh truyền đến Đôn Hoàng, các
sư tăng ở Mạc Cao Quật thất kinh. Họ sợ các tín đồ đạo Hồi tới sẽ cho
tiêu hủy các kinh quyển Phật giáo cùng các đồ nghệ thuật khác. Bởi vậy
liền dùng biện pháp đưa rất nhiều di vật giấu vào trong động rồi bít
kín lại.
Cũng có những học giả sau khi nghiên cứu sâu hơn đã không đồng ý với 2
quan điểm trên, họ cho rằng bất luận là thuyết phòng ngừa Tây Hạ, hay là
thuyết phòng ngừa Vương triều Ca La Hãn, cũng đều nói là phải bít kín
động để đi lánh nạn. Kì thực cả hai thuyết pháp này đều không thuyết
phục. Nếu đã là đi lánh nạn, thì đem đi cất giấu phải là những thứ quí
báu nhất, thế nhưng trong thư khố Mạc Cao Quật có rất nhiều kinh quyển
còn quí hơn cả những thứ lưu giữ trong Động tàng kinh. Ví như “Đại Tạng
Kinh”, “Đại Ban Nhược Kinh”... trọn bộ. Về Mạc Cao Quật ở Đôn Hoàng,
thứ cần bảo vệ trước tiên là mấy bộ kinh quyển quí báu trọn bộ thỉnh
cầu được về từ triều đình, vậy sao lại không đem cất giấu chúng? Xem ra
những thứ lưu giữ trong Động tàng kinh rất có thể là những kinh quyển
và một ít văn thư, đồ dệt tơ... mà các sư tăng tạm thời không dùng đến.
Vì tạm thời không dùng đến, cho nên đem cất kín đi, để lỡ sau này cần
dùng đến đỡ mất thời giờ đi tìm.
Còn một số học giả thì bảo vệ thuyết pháp trên bằng tình trạng ngày càng
phát triển của việc in ấn bằng ván khắc khi ấy. Họ cho rằng các kinh
Phật tượng Phật kiểu trục cuốn hay các văn thư khác được lưu giữ trong
Động tàng kinh, phần lớn đều được viết bằng tay hoặc vẽ trên lụa, tuy
cũng có một ít giấy cuộn, nhưng không nhiều. Còn kinh Phật hoặc các thư
tịch khác in ấn bằng ván khắc, và cả in trên giấy, sau thời Tùy Đường
thì sử dụng ngày càng nhiều cách đóng sách kiểu gập giấy. Người ta cảm
thấy khi sử dụng thư tịch, kinh Phật in theo kiểu gập giấy thuận tiện
hơn nhiều so với kiểu trục cuốn, cho nên đã cho niêm phong tất cả những
kinh Phật cùng các văn thư tạp vật khác theo kiểu trục cuốn lại.
Lại còn có một thuyết pháp nữa là: Đôn Hoàng khi ấy rất náo nhiệt, nó
không chỉ là thánh địa Phật giáo, mà còn là yết hầu giao thông trên Con
đường tơ lụa từ Trung Quốc thông tới Trung Á, Tây Âu, người hành hương,
người buôn bán, người du lịch, các sứ đoàn ngoại giao...đi lại tấp
nập, ngựa xe như nước, ứng tiếp không xuể. Để thu hút thiện nam tín nữ
triều phụng dâng hương, Mạc Cao Quật còn thường xuyên cử hành miếu hội.
Khách đến đông đúc, người quản lí không đủ, các bức bích họa, tượng
đắp trong hang đá không dễ di chuyển, việc coi sóc còn tương đối dễ,
chứ còn những thứ khác ở dạng trục cuốn như kinh Phật, tranh tượng
Phật, thư tịch... cùng đồ dệt tơ thì rất dễ bị người khác thuận tay cầm
đi. Để tránh bị mất mát, người ta liền dùng biện pháp bít kín lại.
Thánh địa Phật giáo Mạc Cao Quật ở Đôn Hoàng cũng giống như các mặt khác
của Phật giáo là đem lại cho người ta một cảm giác thần bí., việc bít
kín Động tàng kinh lại càng điểm thêm màu sắc thần bí của nó. Động tàng
kinh rút cục vì sao mà lại phải đóng kín? Người ta mong muốn biết bao
nếu biết được nguyên nhân thực sự của nó!
Theo: bee.net.vn