Lần đầu tiên bước chân vào chùa, một ngôi chùa uy nghiêm của
làng với Sư Cụ hiền lành và chú tiểu đẹp như tiên giáng, con
đã ngẩn ngơ với những pho tượng Phật và Bồ Tát. Đêm ấy, con nằm
mơ thấy Đức Quan Âm Bồ Tát tuyệt đẹp, từ trong bức
tượng, mẹ hiền đã đến bên con, mỉm cười và ôm con vào lòng; Lúc
ấy, con cảm nhận tình thương bao la của Quan Âm Bồ Tát và lòng
từ bi không bờ bến của Ngài. Hình ảnh này đã nuôi lớn
con cho đến ngày con được thực sự thọ pháp xuất gia. Hình ảnh
này là sợi dây vô hình, kết nối tâm hồn con với Quan Âm Bồ Tát,
để hôm nay đề tài được chọn: “Khái quát tìm hiểu Mật Tông qua
Chú Đại Bi” của Quan Âm Bồ Tát là kết tinh của bao sự
chắt chiu, tìm tòi ngay từ ngày còn là “Điệu” tập sự tu học.
Mật Tông là một trong những tông phái của Phật Giáo. Như
Thiên Thai Tông, Thiền tông, Tịnh Độ tông… Mật Tông cũng có
nguồn gốc và có truyền thừa.
Mật Tông bắt nguồn từ đức Tỳ – Lô – Giá – Na Như Lai. Bồ Tát
Kim Cang đích thân thọ lễ Quán đảnh, kế thừa dòng pháp kỳ diệu
của Đức Tỳ – Lô - Giá - Na này.
Ngài Kim Cang truyền cho Ngài Long – Thọ, Ngài Long – Thọ
truyền cho Ngài Long - Trí, Ngài Long – Trí truyền lại cho hai
Ngài Thiện – Vô - Úy Tam Tạng và Ngài Kim – Cang – Trí Tam –
Tạng.
Vào đầu đời nhà Đường, hai Ngài Vô – Úy và Kim - Cang -
Trí sang Trung Hoa, rộng truyền bí pháp Mật Tông. Ngài Vô Úy
truyền cho Ngài Nhất Hành Thiền Sư. Ngài Nhất Hành thích nghiên
cứu Kinh Đại Nhật làm cho giáo nghĩa Mật Tông được
phát triển rõ nét ở Trung Hoa.
Ở Việt Nam, đời nhà Lý, có các pháp sư nổi tiếng của Mật
Tông như Từ – Đạo - Hạnh, Nguyễn Minh Không. Đời Trần, đời Lê
sau này cũng có, nhưng không hiển rõ nét lắm trong tính cách
môn phái.
Hiện nay, hầu hết các chùa ở Việt Nam đều hành trì cả Thiền – Mật - Tịnh.
Khi nói đến Mật, tức là nói đến những gì bí mật
thầm kín, khó tin, khó hiểu. Mật Tông dùng những
lời nói bí mật của Chư Phật để làm phương tiện
tu tập, những lời nói ấy tức là chân
ngôn, mật ngữ.
Tại sao gọi là “mật ngữ”?
Vì đó là những lời nói như những hằng số. Lời nói ấy không
giải nghĩa được. Lời nói ấy chỉ có Chư Phật và Bồ Tát Thượng
Căn Thượng Trí mới hiểu được trọn vẹn. Tùy trình độ căn cơ mà
mỗi người hiểu một khác và đạt kết quả cũng khác.
Vì kết quả đạt được tùy tâm hành giả. Đó gọi là thần chú hay Đà La Ni.
Sự tu hành của Mật Tông gồm có hai phương diện: Sự và lý,
nói theo danh từ của Mật Tông là giáo tướng và sự tướng.
“Sự Tướng: là tất cả những thực hành như tụng
chú, kết ấn, cúng dường, lập đàn… Tất cả những
thực hành ấy phải theo đúng khuôn phép nhất
định, chứ không thể dùng tùy tiện được. Trong
“Mật tông vấn đáp” dạy: “Người muốn
“trì chú” và “ bắt ấn” thì người đó
phải được truyền pháp một cách đúng
đắn, qua các tu sĩ Mật tông hoặc những
người tu học Mật tông, chứ không nên tự tu tập.
“Giáo tướng” là tất cả những nghĩa lý sâu xa mầu
nhiệm mà chư Phật và Bồ Tát đã rút ra trong sự
tướng để chỉ dạy chúng ta.
Hình thức tu tập của người Hành Mật là ngay trong cuộc sống
hằng ngày, đó là “ đương tướng tức đạo”. Ngoài ra, người tu Mật
quan niệm chính việc làm hằng ngày sẽ làm tròn “cái sự” và
hiển “cái lý” để có “sự lý viên dung”
Chính nghĩa lý u huyền mầu nhiệm của Mật Tông đã
cuốn hút con vượt qua những trở ngại, e dè, đắn
đo khi chọn đề tài. Trong tâm trạng rất vui mừng
khi được giáo sư hướng dẫn chấp thuận
đề tài, lại hòa lẫn những tâm trạng
bâng khuâng lo lắng, sợ rằng không
biết mình có đủ khả năng để hoàn tất
luận văn hay không? Nhưng với lòng chí
thành, tha thiết mong muốn qua sự tìm tòi,
nghiên cứu để thực hiện tiểu luận, tự thân và
tâm của mình có được một tầm tri thức rộng mở
hơn, hầu lấy đó làm bàn đạp cho chính mình để
“Văn – Tư – Tu” và cũng qua tập tiểu luận
đóng góp một vài lợi ích thiết thực
cho những hành giả đang hành trì “Đại
Bi Thần Chú”, nên con đã mạnh dạn,
dũng mãnh tiến hành để thực hiện tiểu
luận.
Từng bước đi, từng bước đi với bao duyên trợ lực, để hôm nay
có thể nói là một sự trưởng thành với nội dung tập tiểu luận
này. Mặc dù gọi là trưởng thành nhưng chỉ mới vừa trưởng thành,
cho nên còn rất nhiều non nớt, không làm sao tránh
khỏi những thiếu sót. Ngưỡng mong Chư Tôn Đức Cao Minh, chiếu
rọi thêm cho, để với một pháp môn tu, con cùng chúng sanh ngày
được thăng hoa trên nẻo đường về Phật.
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: SƠ LƯỢC TÌM HIỂU VỀ CHÚ ĐẠI BI
Chú Đại Bi hay Đại Bi Chú là tên gọi tắt của một bài thần
chú Đà La Ni có tên là : “Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm Bồ
Tát Quảng Đại Viên mãn vô ngại đại bi tâm Đà La Ni kinh Đại Bi
thần chú”, gồm có 84 câu do chính Đức Quán Thế Âm Bồ
Tát trùng thuyết từ Đức Thiên Quang Vương Tịnh Trụ Như Lai. Đức
Phật Thiên Quang Vương Tịnh Trụ vì thương nghĩ đến Đức Quán
Thế Âm Bồ tát và tất cả chúng sanh nên nói ra kinh “Quảng Đại
Viên Mãn vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni”. Ngài lại dùng
tay sắc vàng xoa nơi đầu của Đức Quán Thế Âm và bảo rằng :
“Thiện Nam Tử! Ông nên thọ trì thần chú nầy và vì khắp tất cả
chúng sanh trong cõi trược ở đời vị lai, mà làm cho họ được sự
lợi ích an vui lớn”.
Lúc đó, Đức Quán Thế Âm Bồ Tát mới ở ngôi sơ địa, vừa nghe
xong thần chú nầy liền chứng vượt lên đệ bát địa. Bấy giờ, Đức
Quán Thế Âm Bồ Tát rất vui mừng và phát lời thệ nguyện rằng :
“Nếu trong đời vị lai, tôi có thể làm lợi ích an vui
cho tất cả chúng sanh với thần chú nầy, thì xin khiến cho thân
tôi liền sanh ra ngàn tay ngàn mắt”.
Khi Đức Quán Thế Âm Bồ Tát phát lời thệ như thế rồi thì ngàn
tay ngàn mắt liền hiện đủ nơi thân, cõi đất mười phương rung
động sáu cách, ngàn Đức Phật trong mười phương đều phóng ánh
quang – minh soi đến thân Ngài và chiếu sáng khắp mười
phương vô biên thế giới.
Từ đó về sau, Đức Quán Thế Âm Bồ Tát đã ở trong vô lượng
pháp hội của vô lượng chư Phật, được nghe và thọ trì môn Đà La
Ni nầy. Cũng chính lời thề nguyện như vậy mà bài chú có tên
“Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm Bồ Tát”, trong Đại Bi Tâm
Đà La Ni Kinh của Đức Quán Thế Âm Bồ Tát, thần chú này
còn có các tên gọi như sau :
1. Quảng Đại Viên Mãn Đà La Ni
2. Vô Ngại Đà La Ni
3. Cứu khổ Đà La Ni
4. Diên Thọ Đà La Ni
5. Diệt ác thú Đà La Ni
6. Phá ác nghiệp chướng Đà La Ni
7. Mãn nguyện Đà La Ni
8. Tùy tâm tự tại Đà La Ni
9. Tốc siêu thánh địa Đà La Ni
Đến thời kỳ hóa độ của Đức Phật Thích Ca tại cõi Ta Bà, Ngài
đã khuyến phát Quán Thế Âm Bồ Tát như sau : “Này Quán Thế Âm
Tự Tại ! Ông có tâm Đại Từ Bi , muốn nói thần chú để làm lợi
ích an vui cho tất cả chúng sanh. Hôm nay chính là lúc
hợp thời , vậy Ông nên mau nói ra, Như Lai tùy hỉ, Chư Phật
cũng thế” .
Đức Quán Thế Âm Bồ Tát liền từ chỗ ngồi đứng dậy, sửa y phục
trang nghiêm. Ngài chấp tay, hướng về Phật mà thưa rằng :
“Bạch Đức Thế Tôn ! Tôi có chú Đại Bi Tâm Đà La Ni, nay xin nói
ra, vì muốn cho chúng sanh được an vui, được trừ tất
cả bệnh, được sống lâu, được giàu có, được tất cả công đức của
pháp lành, được thành tựu tất cả thiện căn, được tiêu tan tất
cả sự sợ hãi, được mau đầy đủ tất cả những chỗ mong cầu. Cúi
xin Thế Tôn Từ Bi doãn hứa.
Đại bi thần chú thật vô biên
Quán Âm Tự Tại vẫn hằng tuyên
Quá khứ Thiên – quang – Vương Tịnh – Trụ
Đến Phật Thích Ca ở kiếp hiền
Uùm Ma Ni dứt cơn lửa dữ
Pad mê Hum nở đóa kim liên
Một bước tốc đăng thành chánh giác
Chấp tay con thề nguyện trùng tuyên.
1.1 BẢN CHỮ PHẠN
1.1.a Bản chữ Phạn:
Đây là nguyên bản chữ Phạn trích từ Đại Tạng Kinh số 20 Mật
Bộ N0.1062A, trang 113 thượng dòng 1 đến dòng 28, trung dòng 1
đến dòng 29, hạ dòng 1 đến dòng 4
1.1.b Bản phiên âm chữ Phạn:
Đây là bản phiên âm chữ La Tinh từ nguyên bản Phạn văn , do
giáo sư Etienne Lamotte đã dầy công nghiên cứu tìm tòi sưu tầm,
cùng với vốn nghiên cứu Sanskrit, và thổ ngữ Mãn – Châu, Mông
Cổ, ông đã thanh lọc để có được bài chú Đại Bi bản
Phạn Văn gần đúng với nguyên tác thời Đức Phật Thích Ca Mâu Ni,
được in trong cuốn “Đạo Phật ở Ấn Đo”ả, do nhà xuất bản Phật
Giáo Winrdhorse, London xuất bản, và Phật tử Học giả
Khoan Hồng cũng đã dầy công nghiên cứu và tìm được chính bản
chữ Phạn của GS E. Lamotte về chú Đại Bi và Thủ Lăng Nghiêm đã
in trong cuốn “Thần chú Thủ Lăng Nghiêm và Đại Bi” năm 1995
được Hòa thượng Đức Nhuận chứng minh. Sau đây là bài chú
Đại Bi :
MAHA KARUNIKATSITTA DHARANI
1. Namo ratnatrayaya
2. Namo arya, avalokiteshvaraya,
3. Bodhisatvaya, maha satvaya, maha karunikaya,
4. Aom, sarva rabhaye, sudhanadasya,
5. Namo skrta imo arya, avalokiteshvara lamdhaba,
6. Namo narakintri, heri maha vadha same, sarva atha dusubhum ajeam, sarva sada nama pasattva
7. Nama vaga mava du du, tadyatha:
8. Aom, avaloka, lokate karate, ehre, maha bodhisatva, sarva sarva, mara mara, mahe mahe hrdayam
9. Kuru kuru karman, dhuru dhuru vajayate,
10. Maha vajayate, dhara dhara, dhirini svaraya, jara jara.
11. Mamavamara, muktele ihe ihe, tsinda tsinda, arsam pratsali vasa vasam, prasaya,
12. Huru Huru mara, huru huru heri, sara sara, siri siri, suru suru
13. Bodhiya bodhiya, bodhaya bodhaya, maitreiya, narakintri
14. Dhrisanina, pasamana svaha,
15. Siddhaya svaha, maha siddhaya svaha,
16. Siddhayoge, svakaraya, svaha,
17. Narakintri svaha, mara nara, svaha,
18. Sira simha mukhaya, svaha, sarva maha astaya, svaha,
19. Tsakra astaya, svaha,
20. Padma kastaya, svaha,
21. Narakintri vagaraya svaha,
22. Mavarisankraya svaha,
23. Namo ratnatrayaya, namo arya, avalokite shvaraya, svaha.
24. Aom siddhyantu mantra padaya svaha
1.2 BẢN CHỮ HÁN
1.2.a Bản chữ Hán:
Đây là nguyên bản chữ Hán trích từ Đại Tạng kinh số 20, Kinh
Quán Âm Đại Bi Tâm Đà La Ni. Trang 107 trung dòng 23 đến 29,
hạ dòng 1 đến dòng 25. [ xem phụ lục 1]
1.2.b Bản phiên âm
Bản phiên âm Hán Việt được hầu hết các chùa Phật Giáo Bắc
Tông thường xuyên trì tụng hằng ngày trong các thời khóa và đã
được thống nhất cả 3 miền Nam – Trung – Bắc theo một
bản trong các kinh Nhật Tụng hoặc Nghi Thức Tụng Niệm.
Nam mô hắc ra đác na đá ra dạ da. Nam mô a rị da. Bà lô kiết
đế thước bát ra da. Bồ đề tát đỏa bà da. Ma ha tất đỏa bà da.
Ma ha ca lô ni ca da. Án tát bàn ra phạt duệ. Số đát na đát tả.
Nam mô tất kiết lật đỏa y mông a rị da. Bà lô kiết đế
thất phật ra lăng đà bà . Nam mô na ra cẩn trì hê rị ma ha bàn
đá sa mế . Tát bà a tha đậu du bằng. A thệ dựng. Tát bà tát đá
na ma bà dà. Ma phạt đặc đậu. Đát điệt tha. Aùn a bà lô
hê. Lô ca đế ca ra đế. Di hê rị. Ma ha bồ đề tát đỏa. Tát bà
tát bà. Ma ra ma ra. Ma hê ma hê rị đà dựng. Cu lô cu lô yết
mông. Độ lô độ lô phạt xà da đế. Ma ha phạt xà da đế. Đà ra đà
ra. Địa rị ni. Thất Phật ra da. Giá ra giá ra. Mạ mạ
phạt ma ra. Mục đế lệ. Y hê di hê. Thất na thất na. A ra sâm
Phật ra xá lợi phạt sa phạt sâm. Phật ra xá da. Hô lô hô lô ma
ra. Hô lô hô lô hê lỵ. Ta ra ta ra. Tất rị tất rị. Tô rô tô rô.
Bồ đề dạ bồ đề dạ. Bồ đà dạ bồ đà dạ. Di đế rỵ dạ. Na
ra cẩn trì địa rị sắc ni na, ba dạ ma na, ta bà ha, tất đà dạ
ta bà ha. Ma ha tất đà dạ, ta bà ha. Tất đà du nghệ, thất bàn
ra dạ, ta bà ha.Na ra cẩn trì, ta bà ha. Ma ra na ra. Ta bà
ha. Tất ra tăng a mục khư da, ta bà ha. Ta bà ma ha a tất
dà dạ, ta bà ha. Giả kiết ra a tất đà dạ, ta bà ha. Ba đà ma
yết tất đà dạ ta bà ha. Na ra cẩn trì bàn đà ra dạ, ta bà ha.
Ma bà lỵ thắng yết ra dạ. Ta bà ha.
Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da. Nam mô a rị da. Bà lô kiết
đế. Thước bàn ra dạ. Ta bà ha. Aùn tất điện đô. Mạn đà ra. Bạt
đà dạ. Ta bà ha”.
1.3 Ý NGHĨA BÀI CHÚ ĐẠI BI
1.3.a Ý nghĩa
Toàn bộ bài chú Đại Bi này là một công phu chân thực để hoàn
thành chánh đẳng chánh giác, không có một chút mảy may hư
ngụy, mỗi chữ mỗi câu đều chứa đựng tâm đại từ bi, tâm bồ đề vô
thượng của Đức Quán Thế Âm Bồ Tát, vì muốn phổ độ chúng
sanh, nên ngài đã đọc ra lời khẩu quyết trọng yếu này.
Chú tức là lời nói bí mật được phát xuất khi Đức Phật hoặc
Bồ Tát ngồi Thiền định, kinh Thủ Lăng nghiêm nói rằng : “Mật
chú của Chư Phật là phép bí mật, chỉ có Phật với Phật tự biết
với nhau, các vị thánh không thể thông đạt, chỉ tụng trì
là diệt được đại lỗi, mau lên thánh vị”.
Cho nên việc tìm hiểu ý nghĩa của một bài chú là một việc
nan giải, tuy nhiên trong nghi thức tụng niệm Đại Bi Chú giảng
giải do Pháp Sư Thánh Ấn biên soạn như sau :
Nam mô (quy y) – Hắc ra Đát na đa ra dạ da (Tam Bảo, tức
Phật, Pháp, Tăng) – Nam mô (quy mạng ) – A lị gia (Thánh) Bà
lô kiết đế (Quán) – Thước bát ra da (tự tại) – Bồ đề Tát đỏa Bà
da (giác hữu tình) – Ma ha tát đỏa bà da (Đại Giác hữu
tình) – Ma ha ca lô ni ca da (hữu đại bi giả, người có lòng
đại bi) – Án (quy mạng) – Tát bàn a phạt duệ (nhất thiết tôn) –
số đát na đát tả (vị cứu tế hết thảy mọi sự khủng bố) – Nam Mô
(quy mạng) – tất kiết lật đỏa (ư bỉ, ở kẻ kia)-Y mông
a lị gia (ngã thánh, thánh của ta) – Bà lô kiết đế, thất Phật
ra lăng đà bà (Quán tự tại Hương Sơn) – nam mô (quy mạng) – na
ra cẩn trì (đó là uy lực của Thánh Quán Tự Tại, tên là
Thanh cảnh chi tâm chân ngôn) – Hê rị ma ha bàn đá sa mế (ta
nay tuyên thuyết) – Tát bà a tha đậu du bằng (vị có hết thảy
mọi hy vọng viên mãn, có ánh sáng rực rỡ) – A thệ dựng (không
gì sánh được) – Tát bà tát đá (hết thảy mọi quỷ thần
không thể đánh thắng được ) – Na ma bà dà (đồng chân) – Ma phạt
đạt đậu (người có đạo thời khiến cho cõi mê tự nhiên thanh
tịnh) – Đát điệt tha (có nghĩa là) – Án (quy mạng) – A Bà Lô Hê
(bậc có trí tuệ sáng suốt) – Lô Ca Đế (Quán Tự Tại) –
Ca ra đế (Đấng Siêu Việt thế gian) –Di Hê Lị (sư tử vương; Đại
bi chú cú giải của HT Tuyên Hóa thì Di hê lị có nghĩa là
“Thuận Giáo” ; y theo lời giáo chỉ của Bồ Tát Quán Thế Âm, cũng
như quán thế âm của tự tâm để hành hóa ( trang 52) –
Ma ha bồ đề tát đỏa (Đại Bồ Tát) – Tát bà tát bà (hết thảy hết
thảy) – Ma ra ma ra (ghi nhớ, ghi nhớ) – Ma hê ma hê rị đà dựng
(tâm chân ngôn) – Cu lô cu lô kiết mông (làm sự nghiệp) –
Đồ lô đồ lô (bảo trì, bảo trì)- Phạt xà da đế (du không
giả, người chơi ở trên không) – Ma ha phạt xà da đế (Đại du
không giả) – Đà la đà la (bảo trì) - Địa rị ni (kẻ trì tụng) –
Thất Phật ra da (Đế Vương Tự tại) – Dá ra dá ra (hành
động) – Mạ mạ phạt ma ra (vô cấu giả, không buị bám) - Mục đế
lệ (vô cấu thể, thể không dơ) – Y hê Y hê (giáo ngữ) – Thất na
thất na (hoằng thệ, lời thề rộng rãi) – A ra sâm (vương, vua) –
Phật ra xá lợi (giác kiên cố tử) – Phạt sa phạt sâm
(hoan hỷ) – Phật ra xá da (trừ diệt mọi độc hại do tham sân si
gây ra) – Hô lô hô lô ma ra (tác pháp vô cấu, làm phép không
nhiễm bụi dơ) – Hô lô hô lô hê rị (mau chóng, mau chóng, tóc đã
bạc rồi) – Ta ra ta ra (kiên cố giải) – tất rị tất rị
(hoặc hoa sen) – tô rô tô rô (cọng hoa sen) – Bồ đề dạ bồ đề
dạ (tỉnh ngộ tỉnh ngộ) – Bồ đà dạ bồ đà dạ (giáo ngộ giáo ngộ,
dạy bảo và tỉnh ngộ) - Di đế rị dạ (kẻ có lòng từ ái) – Na ra
cẩn trì (thanh cảnh, cổ xanh) – Địa rị sắt ni na (kiêm
lợi, bền chắc, linh lợi) – Ba dạ ma na (danh văn, nghe tên) –
Ta bà ha (lòng mong mỏi được gặp sẽ được ảnh hiện, sanh lòng
hoan hỷ, viên mãn, tới Niết Bàn) - Tất đà dạ (nghĩa) –
Ta bà ha (bậc đã được thành tựu) Ma ha Tất Đà Dạ (Đại Nghĩa) –
Ta Bà Ha (bậc đã được đại thành tựu) – Tất đà du nghệ (vô vi) –
Thất bàn ra dạ (bậc đại tự tại) – Ta bà ha (bậc tự tại bởi tất
địa và du già) – Na ra cẩn trì (hiền ái) – Ta bà ha
(vì thanh cảnh viên mãn nên thành tựu) – Ma ra na ra (có kẻ mặt
heo) – ta bà ha (thành tựu) – Tất ra tăng a mục khư gia (ái
ngữ đệ nhất nghĩa, nghĩa thứ nhất của tiếng yêu) – ta bà ha
(tay cầm hoa sen); Ta bà ma ha (đại thành tựu) – A tất đà
dạ (vô tỷ, không có gì sánh được) – Ta bà ha (thành tựu)-Giả
kiết ra a tất đà dạ (không gì so sánh được) – ta bà ha (thành
tựu) – Ba đà ma kiết tất đà dạ (đại nghĩa) – Ta bà ha (Đấng
được khai ngộ vì nghe được tiếng pháp loa) – Na ra cẩn
trì bàn đà ra dạ (bậc hiền thủ thánh tôn) – ta bà ha (thành
tựu) – Ma bà rị thắng kiết ra dạ (anh hùng uy đức sanh tính) –
Ta bà ha (chinh phục con ma sắc đen ở vai bên trái) – Nam mô
hắc ra đát ra đá ra dạ da (quy mệnh tam bảo: Phật,
pháp, tăng) – Nam mô (quy mạng) – Alị gia (thánh) – Bà lô kiết
đế (Quán) – Thước bàn ra dạ (tự tại) – Ta bà ha (thành tựu) –
Án (quy mệnh) – tất điện đô (khiến cho tôi được thành tựu) –
Mạn đà ra (chân ngôn)-Bạt đà giạ (câu) – ta bà ha (thành
tựu)
1.3.b Đại ý
Kính cẩn khấu đầu trước Tam Bảo Phật Pháp Tăng. Xin quy y
theo đức Thánh Quán Tự Tại Bồ Tát, Quy mạng Đức Đại Bồ Tát đại
từ đại bi, mà cầu xin thành tựu được sự giác ngộ, nhằm cứu tế
những kẻ mê muội do mọi sự khủng bố trên thế gian này.
Vì vậy, chúng con xin quy mạng nơi Đức Đại Bồ Tát có lòng đại
từ bi. Nhất tâm thệ nguyện truyền bá rộng rãi lòng từ bi của
Đức Thánh Quán Tự Tại Bồ Tát, lắng nghe tâm chân ngôn đại oai
thần lực (tổng trì pháp môn tâm chân ngôn và Phật nội
chứng), vâng theo mệnh của Bổn tôn là Đại Bi tâm Đà la ni này
hết lòng xưng tụng công đức Quán Tự Tại Bồ Tát, tất cả mọi hy
vọng đều được viên mãn, mà làm sáng tỏ tính chất đồng thể
đại bi thanh tịnh viên minh và làm cho tất cả quỷ thần đều
không thể đánh thắng được oai lực lớn của Ngài. Với những kẻ có
tâm đạo, không bao giờ bị sự vô minh phiền não mê hoặc, không
bao giờ bị đắm vào cõi mê, và được dẫn dắt tới thế
giới quang minh của đức Đại Bồ Tát. Trí tuệ quang minh được
biểu hiện siêu tuyệt nhất thế gian, là Đức Bồ Tát có công đức
vô cùng vĩ đại. Có đấng quy mạng, giống như Đức Tự Tại Sư Tử
Vương Đại Bồ Tát, ức niệm nói chung bản thể tâm chân
ngôn, Bồ Tát cũng giống như đi ở trên không để mở cuộc đại diễn
thuyết tự tại, hoặc là làm công việc tư duy về một sự nghiệp
lớn. Cũng như các bậc đế vương, bất kể việc gì, đều được đức
Bồ Tát làm một cách tự do tự tại. Được hành động bởi một
thân thể thanh tịnh, không mảy may dơ bẩn, hoặc để trừ diệt
mọi hành vi dơ bẩn của ba cái độc hại là tham, sân, si, cũng
như trừ diệt mọi ác ma độc hại ở trên thế gian này. Như vậy
sẽ nhanh chóng có mái tóc hoa đẹp đẽ, hoặc một bông hoa
sen thanh tịnh, và cầm được bông hoa sen của đức Bồ Tát. Giáo
hóa được nghiệp ngu si của ta và chứng ngộ được lòng đại bi ái.
Nếu như muốn thấy được con chim cổ xanh, có thể khiến nó
hiện hình trước mắt, khiến sinh lòng hoan hỷ của Quán tự
tại Bồ Tát.
Muốn được tới cõi Niết Bàn (thành tựu viên mãn) sẽ được thấy
cõi Niết Bàn, và cũng được tới tất địa (nơi ngộ đạo) với Du
Già (tương ứng hiệp nhập) được tự do tự tại. Trong đó cũng có
kẻ mặt heo cổ xanh, có kẻ mặt sư tử, còn từ bi thì biểu
thị tay cầm hoa sen, để đeo ngọc hoàn mà đánh ma quỷ phiền
não. Nghe tiếng pháp loa vi diệu mà được chuyển mê khai ngộ.
Tay cầm bông sen lớn, mắt nhìn về phía tay trái nhắm vào các
loại ma sắc đen, và hết thảy đều quy y chân thực tam
bảo.
Nam mô Thánh Quán Tự Tại Bồ Tát, khiến cho con được tới cõi
Niết Bàn, để trì tụng lời chân ngôn này ở nơi Niết Bàn u tịnh”.
Như vậy, chúng ta đã tìm hiểu sơ lược qua bài Chú Đại Bi bản
chữ Phạn, chữ Hán, cùng các bản phiên âm và ý nghĩa của bài
Chú Đại Bi. Mặc dù người viết đã cố gắng tìm hiểu thật nhiều,
nhưng phần tài liệu hạn hẹp, cho nên chưa thể mở rộng
ra được nhiều vấn đề cần tìm hiểu, rất mong sau này, với pháp
môn tu trì – tụng niệm – Chú Đại Bi, sẽ càng ngày có nhiều hành
giả hơn, hầu mong một pháp môn vi diệu được xiển dương.
CHƯƠNG 2:
SƠ LƯỢC TÌM HIỂU VỀ HÌNH ẢNH CỦA ĐỨC QUÁN THẾ ÂM
2.1 HÌNH ẢNH ĐỨC QUAN ÂM TARA QUA CÁC SẮC DIỆN
Nói đến hình ảnh Đức Quan Âm TARA hay là Thánh Cứu Độ Mẫu,
đối với Phật tử Việt Nam gần như là mới lạ. Thượng Tọa Thích
Viên Thành đã không quản ngại lao nhọc, gia tâm nghiên cứu, tra
khảo qua Đại Tạng kinh phần Hán Tạng, cùng với sự tìm
hiểu pháp tu của một vị Kim Cương Thượng Sư người Tây Tạng tên
là Tây Khang NẶC NA HÔ ĐỒ KHẮC ĐỒ và Ngài đã tìm ra nội dung
tu trì của Đức Quan Âm TARA trong Đại Tạng phần Mật Giáo,
mục N0 1108A bằng Hán Văn với tên “Thánh cứu Độ Phật Mẫu
nhị thập nhất chủng lễ tân kinh” của Hàn Lâm học sĩ Thừa Chí
Trung phụng Đại Phu An Tạng dịch.
Ở đây, chúng ta cùng tìm hiểu một vài sắc diện của Quan Âm TARA.
2.1.a Lục cứu độ Phật Mẫu
Nam mô thị hiện TARA Phật
Biêng biếc mắt xanh chiếu Ta Bà
Vì độ quần sanh làm thân nữ
Tam giới liên hoa ngọc lệ thành.
Bổn tôn thân toàn màu LỤC, dung mạo hiền từ , ngồi bán già
trên Nhật Nguyệt Luân của hoa sen có tám cánh, màu trắng hơi
hồng, chân phải để xiên, chân trái co lại, mỗi tay đều cầm một
cánh hoa ba lạp, đầu đội mũ bán có năm đức Phật, thân
trên áo bay lất phất như cờ hiệu, thân dưới quấn ngoài một tấm y
rộng, bên trong quần hẹp, quanh cổ đeo ba vòng châu, vòng thứ
nhất ở trên ngực, vòng thứ hai đến tim, vòng thứ ba đến rốn,
vòng đeo tay, vòng cổ tay, vòng khủy tay, chuông nhỏ
đeo cổ chân, các đồ trang sức đều trang nghiêm. Còn hai mươi
tôn độ mẫu, tư thế ngồi trên tòa cùng y phục và trang sức cũng
giống như Lục Độ Mẫu, chỉ khác màu sắc. Bổn Tôn xưa gọi là Đà
La Quán Tự Tại Bồ Tát (Dhara Avalokiteshvara
Bodhisaha) tức Nam Hải Phổ Đà Sơn Quán Thế Âm Bồ Tát.
Nay lược thuật pháp tu trì Lục Độ mẫu như sau: “thân ngồi
ngay thẳng, không sinh một niệm nào. Trong khoảng sát na quán
tưởng tự thân hành lục Độ Mẫu, đầu đội mũ bán có năm Đức Phật
(tức là Đức Phật A Di Đà – Amitabha Bouddha, Đức Đại
Nhật Như Lai – Vairocana Bouddha, Đức PhậtA Súc Bệ – Asobhya
Bouddha, Đức Phật Bảo Sanh – Ratna Sambhava Bouddha, Đức Bất
Không Thành Tựu Như Lai – Amoghasiddhi Bouddha), trong đỉnh có
Đức Phật A Di Đà. Lại quán nơi tâm mình có hoa sen,
trên hoa có Nhật Nguyệt Luân, Nhật Luân màu hồng, Nguyệt Luân
màu trắng. Chữ TÂM lập ngay chính giữa Nguyệt Luân, mặt chữ
xoay về phía trái, bên ngoài từ phía trước theo hướng phải có
Lục Độ Mẫu tự chú bao quanh thành hình tự luân. Chữ
Chủng Tử và Chú Tự Luân đều phóng quang mầu lục, cúng dường Chư
Phật khắp mười phương. Mười phương Chư Phật cũng phóng quang
tương ứng. Công đức của Chư Phật khắp mười phương theo ánh sáng
nầy hồi nhập vào tự thân hành giả. Thân, khẩu, ý của
hành giả trở thành thân, khẩu, ý của Độ Mẫu. Lại do chữ TÂM
phóng quang phổ chiếu khắp hết chúng sanh, tiêu diệt tất cả tội
nghiệp của hết thảy, làm cho rời khổ được an vui, sự sự như ý
đều thành độ mẫu, phóng quang tương ứng. Lại quán hào
quang nầy hồi nhập vào trong chủng tử của tự thân. Rồi bắt đầu
niệm chú càng nhiều càng tốt. Trong lúc niệm quán ngoài tự
luân, có hào quang mầu lục từ phía trước, hướng về phía
trái chuyển vòng lại. Niệm xong, dùng công đức ấy bố thí cho
hết thảy chúng sanh, gọi là hồi hướng.
Lục cứu Độ Mẫu chú như sau : OĂM–A REN-DUDA REH–DUREH-SOHA- TA RE-TUTARE-TURE-SVAHA
Bổn Tôn là chủ tôn trong 21 Độ Mẫu, Lục Độ Mẫu
chú cũng là chú căn bản trong 21 chú, thường
chuyên niệm tụng có thể cắt đứt gốc rễ luân hồi,
diệt trừ tất cả ma chướng, bệnh ôn dịch,
tiêu trừ tất cả tai nạn, nước lửa, đao
binh, trộm cướp, tăng tuổi thọ, tăng
phúc tuệ, phàm cầu việc gì đều được
như ý, mệnh chung vãng sinh cực lạc.
Thành tâm phụng trì, linh ứng dội đến, liền
như tiếng vang, công đức rất lớn, không thể nói
hết. Như lúc triều lễ Nam Hải Phổ Đà Sơn, trì
tụng chú nầy, cảm ứng đặc biệt.
2.1.b Bạch Cứu nạn Độ Mẫu hay là Cứu tai nạn Độ Mẫu
Khể thủ tướng hảo vạn trăng thu
Diệu vợi muôn sao phổ sáng ngời
Vằng vặc trên cao vô số ức
Từ quang rạng rỡ khắp muôn trời.
Bạch Cứu Nạn Độ Mẫu bổn tôn thân sắc TRẮNG, tay phải thí vô úy ấn, tay trái cầm hoa
Bạch Cứu nạn Độ Mẫu chú như sau : OĂM, BAT – JA – DAREH – SARVA, BIGGANEN, SHINDUM, GOORU, SOHA.
Trì tụng bổn tôn chú trừ được hết thảy bệnh khổ, hết thảy tai nạn nguy hiểm về đất, nước , gió, lửa.
2.1.c Cứu địa tai Độ Mẫu
Khể thủ thân tướng tợ kim ngân
Sáu hạnh liên hoa vô nhiễm trần
Bố thí, trì giới đồng kham nhẫn
Tinh tấn ,thiền định, Huệ quang tâm
Bổn Tôn thân sắc màu LAM, tay phải : thí vô úy ấn, tay trái cầm hoa, trên hoa dựng đứng năm chày kim cang.
Cứu địa tai Độ Mẫu chú như sau : OĂM, DAREH, DUDAREH, DUREH, MAMA, SARVA, LUM LUM, BAYA, SHIN DUM, GOORU SOHA.
Trì tụng Bổn Tôn chú, trừ được địa chấn cùng núi lở, đất nứt, nhà cửa nghiêng sập.
2.1.d Cứu hỏa tai Độ Mẫu
Bổn tôn thân sắc VÀNG, tay phải : thí vô úy ấn, tay trái cầm hoa, trên hoa có ngọc Phalê, rớt ra nước cam lồ.
Cứu hỏa tai Độ Mẫu chú như sau : OĂM - DAREH DU DAREH,
DUREH, MAMA, SARVA RUM RUM , NG – JO LA BA , YA, SHIN DUM,
GOORU, SOHA.
Trì tụng bổn Tôn chú, trừ được hết thảy tai nạn về lửa.
2.1.e Cứu ma nạn Độ Mẫu
Nam mô tướng hảo quang cung Phật
Rực rỡ chính phương ngọc lửa thần
Biến ánh từ quang thành binh tướng
Thiêu hết hung đồ, diệt ma quân
Bổn tôn thân màu ĐEN, tay phải : Thí vô úy ấn, tay trái cầm
hoa trên hoa có cắm chày hàng phục MA, chày có ba đầu .
Cứu ma nạn Độ Mẫu chú như sau : OĂM, DAREH, DUDAREH, DUREH, SARVA, DU JING, BIDGA, NEN BUM PEH, SOHA.
Trì tụng bổn tôn chú, trừ được các quái bệnh về cổ mị, linh
tinh, cùng tất cả tai ương và thiên ma, địa ma, không ma, địa
long .
2.1.f Tăng oai quyền Độ Mẫu :
Bổn tôn thân màu HỒNG, tướng mạo nhu hòa, tay phải cầm hoa đầu hướng lên trên, tay trái cầm dây tơ.
Tăng oai quyền Độ Mẫu chú như sau : OĂM BEH MA DARE, SENDA RA SHEN , SARVA, LOGA, VA SHUM GOORU HO.
Trì tụng bổn tôn chú được oai quyền lớn, khiến người khâm
kính, như bộ thuộc không phục tùng thì làm cho phục. Lại như vợ
chồng bất hòa, tu theo pháp này thì làm cho thân ái, kính yêu
suốt đời.
2.1.g Cứu súc nạn Độ Mẫu :
Nam Mô uy dũng lôi chấn địa
Đại hùng Phật thủ lực nan tư
Cử túc âm thinh rền địa ngục
Chinh phục mười phương diệu âm HUM
Bổn tôn thân màu NÂU ĐẬM, tay phải : Thí vô úy ấn, tay trái cầm hoa, trên hoa có mâu.
Cứu súc nạn Độ Mẫu chú như sau : OĂM, DAREH, DU DAREH, DU
REH, SAVRA, HUNK HUNK DU JING HA NA HA NA, JA SA YA PEH, SOHA.
Trì tụng bổn tôn chú, không bị các thú vật không ăn thịt như voi, ngựa, trâu …làm hại.
Có tất cả là 21 tôn Độ Mẫu, trong bài tiểu luận này, chúng
ta sơ lược vài tôn Độ Mẫu để tìm hiểu về một vài sắc diện của
Đức Quán Thế Âm Bồ Tát.
Trong “Nghi thức tu trì Lục Độ TARA” của Thượng Tọa Thích
Viên Thành có kể câu chuyện về thánh cứu độ Phật Mẫu như sau :
Vô lượng kiếp về trước có thế giới tên là Tụ Quang. Lúc bấy
giờ, ở thế giới này có Đức Phật ra đời, hiệu là Cổ Âm Như Lai .
Trong nước có một người con gái tên là Bát Nhã Nguyệt, sinh
ra đã có sẵn trí tuệ, kính lễ Tam Bảo . Thời ấy, mạng sống của
con người rất dài. Bát Nhã Nguyệt cung kính các đệ tử của Phật,
tất cả mọi đồ dùng cần thiết đều trí tâm cúng dường
đến một trăm vạn tám ngàn năm, lại dùng sáu trăm dặm trân châu
anh lạc cúng dường chúng tăng, Chư Tỳ Kheo đồng thanh khen
ngợi: “ Người đời này tất được chứng quả, nếu chí thành phát
nguyện, tất như nguyện thành tựu”. Bát Nhã Nguyệt thưa :
“Nay tôi trong ý thức không thấy là nam hay nữ, không ta
không người, không biết không thấy, không có cả danh từ nam nữ.
Phần nghiệp chướng ở thế gian đều do vọng chấp tâm này mà có.
Xem lại những vị lấy thân nam Tu Đạo Bồ Đề thì rất
nhiều, mà nữ thân Tu Đạo Bồ Đề thì rất ít. Tôi nguyện từ thế
giới này cho đến thế giới tận, hư không giới tận, đều dùng thân
nữ mà độ chúng sanh”. Bát Nhã Nguyệt phát nguyện như vậy, liền
ngồi quán các căn : mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý,
liền được tâm khai, chứng nhập vô sinh pháp nhẫn, thành Độ Nhất
Thiết Hữu Tình Phật Mẫu. Sau khi thành đạo, mỗi sáng sớm phát
Bồ Đề tâm độ trăm vạn chúng sanh, nếu không như vậy, không ăn
sáng, sau giờ Ngọ cũng thế, nhờ đó nên thành Độ Mẫu,
danh xưng rộng nghe khắp mười phương thế giới. Phật thọ ký :
“Đại Độ Mẫu này quyết định không ngừng nghỉ khi chưa thành
Phật”.
Lại ở trước Đức Phật Bất Không Thành Tựu phát nguyện rằng :
“Nguyện hộ trì hết thảy các chúng sanh tội khổ trong mười
phương thế giới”, liền hàng phục hết thảy ma, ngồi nhập định
bình đẳng như vậy trong chín mươi lăm đại kiếp, mỗi ngày
có vạn vạn chúng hữu tình được ban cho sự an vui thanh tịnh,
nên gọi là Độ mẫu, lại gọi là Năng Mẫu, Tốc Mẫu, Dũng Tướng
Mẫu.
Có rất nhiều câu chuyện linh ứng đối với việc trì niệm Độ Mẫu, như sau :
“Một vị trụ trì mắc bệnh rụng lông mày, có năm vị tăng cũng
cùng bệnh, thịt rụng, mày bóc, không có phép trị, không ai dám
lại gần, sợ lây. Trên đường khất thực thấy trên tảng đá lớn có
khắc Độ Mẫu chú cùng tượng Độ Mẫu, đều quỳ xuống khóc,
cầu. Trong tay tượng đá bỗng tuôn ra nước, màu như thuốc. Nhận
lấy nước ấy mà rửa, bệnh đều khỏi và tướng mạo lại hóa tốt đẹp
trang nghiêm, như người cõi trời”. [15, ]
“ Có một trăm vị tăng qua sông bị nước cuốn ra giữa dòng
sông. Các vị niệm Độ Mẫu bỗng thấy tượng Độ Mẫu ở trên bờ,
trong miếu, xuất hiện ra cứu. Tượng này về sau có tên là Phong
Thủy Độ Mẫu”
“ Ở Ấn Độ có tháp Đại Bồ Đề, trên tháp có tượng Độ Mẫu, có
vị tăng nói với tượng : “Nếu mặt hướng ra ngoài tháp cùng hướng
vào trong tháp, không như thế được sao”. Nói xong bỗng nghe
tượng đáp : “ Ông đã nghi ngờ, ta quay thân như thế
nào”. Tượng bèn quay thân, mặt hướng vào trong. Trong lúc xuống
thân, cửa tháp cùng gạch theo thân tượng mà quay ngược vào
trong. Đến nay còn gọi là Phản Thân Độ Mẫu” [15, ]
Những câu chuyện như vậy đã chứng minh sự hành trì tu tập
“Lục độ TARA” sẽ có kết quả. Người tu pháp này, hết thảy tội
nghiệp đều tiêu diệt, tất cả ma chướng tiêu tan, cứu được tất
cả tai nạn. Lại được thân thể sống lâu, đời sống đầy đủ,
thành tựu cực kỳ mau chóng, công đức lợi ích vô cùng vô
biên, nói không thể hết vậy.
Chúng ta đã tìm hiểu sơ lược một vài hình ảnh về Đức Quan Âm TARA qua các sắc diện.
2.2 Hình ảnh Đức Quán Thế Âm Bồ Tát qua các đức tính đại từ đại bi
“Viên thông giáo chủ, mãn nguyệt kim dung, thị Di Đà ư Cực
Lạc quốc trung, trợ Thích Ca Ư Ta Bà giới nội. Cư Lưu Ly Chúng
Bảo chi sơn, xử thiên diệp hồng liên chi tọa. Quá khứ Chánh
Pháp Minh, hiện tiền Quán Tự Tại, tam thập nhị ứng, quảng
độ quần sanh, thất nạn nhị cầu, đa phương ứng vật, thù
thắng diệu lực, tán mạc năng cùng, ngưỡng khấu hồng từ, phủ
chương đổng giám “. [10, 4 – 5]
Ngài vốn đã là một vị cổ Phật, nhưng vì lòng bi nguyện nên
thị hiện làm Bồ Tát trong thế giới Ta Bà để hỗ trợ Đức Phật
Thích Ca chuyển pháp luân, độ chúng sanh; Ngài có nhiều công
đức và hạnh nguyện đặc biệt đối với chúng sanh ở cõi Ta Bà,
kinh Đại Thừa Trang Nghiêm Bảo Vương có đoạn như sau :
Qui mạng Liên Hoa Vương, Đại Bi Quán Tự Tại
Đại Tự Tại Cát Tường, hay thí nguyện hữu tình
Đủ sức đại oai thần, hàng phục cực bạo ác
Nơi tối làm đèn sáng, thấy ấy đều không sợ
Thị hiện trăm ngàn tay, mắt kia cũng lại vậy
Đầy đủ mười một mặt, trí như bốn biển lớn
Ham ưa pháp vi diệu, vì cứu các hữu tình
Trạnh cá các thủy tộc, tối thượng trí như núi
Thí báu giúp quần sanh, tối thượng đại cát tường
Phước trí đủ oai nghiêm, vào nơi ngục A Tỳ
Biến thành nơi mát mẻ, các trời đều cúng dường
Đảnh lễ thí vô úy, nói sáu ba la mật
Thường thắp đèn đuốc pháp, mắt pháp dụ trời sáng
Sắc tướng mầu đoan nghiêm, thân tướng như núi vàng
Bụng mầu sâu bể pháp, tương ưng ý chơn như
Trong miệng hiện diệu đức, chứa nhóm tam ma địa,
Vô số trăm ngàn muôn, có vô lượng khoái lạc,
Đoan nghiêm tiên tối thượng, sợ hãi trong ác đạo
Cùm trói được giải thoát, vô úy thí tất cả
Các quyến thuộc đoanh vây, mong cầu đều như ý
Như được Ma-Ni báu, phá hoại Ngạ Quỷ Thành,
Khai mở đạo tịch tịnh, cứu độ bịnh thế gian
Như tàng cái che tràng, Nan Đà Bạt Nan Đà
Hai Long Vương thân cận, tay cầm Bất – Không – Tác
Hiện vô số oai đức, hay phá khiếp ba cõi
Kim Cang Thủ Dược Xoa, La Sát và Bộ – Da
Vĩ –Đa-Noa chỉ nễ, và cùng Cũng – Bàn – Noa,
A-Bát-Ta Ma-Ra, thảy đều ôm lo sợ
Mắt ưu bát La Hoa, Minh chủ thí vô úy,
Tất cả thảy phiền não, các món đều giải thoát
Vào nơi vi trần số, trăm ngàn Tam-Ma-Địa,
Khai thị các cảnh giới, tất cả trong ác đạo
Đều khiến được giải thoát, thành tựu Đạo – Bồ – Đề. [5, 16 – 17]
Dù chúng ta có tán thán công đức của Quán Thế Âm Bồ Tát đến
cả trọn kiếp cũng không thể nào hết được, Ngài đã vì chúng sanh
vào trong đại địa ngục A Tỳ, rồi đến vào thành Ngạ Qủy, đến
nơi nào, Ngài cũng đều hóa hiện những lợi ích an vui :
“ …. Lúc ấy, Ngài Quán Tự Tại Đại Bồ Tát, khởi lòng Đại Bi,
nơi mười ngón tay Ngài biến ra dòng sông trong, nơi mười ngón
chân cũng phát ra dòng suối mát, mỗi lỗ chân lông đều biến ra
dòng sông lớn, các loài Ngạ Quỷ uống được nước ấy, khi
uống được rồi thì yết hầu mở lớn, thân tướng đầy đủ, lại được
ăn no đủ các thứ thượng vị, các Ngạ Quỷ này được lợi ích an vui
….”[5, 18]
Khể thủ vô cấu Mãn – Nguyệt – Chủ
Pháp vũ nhiêu ích chư chúng sanh
Tu trì nghi quỹ hạnh nguyện pháp
Nguyện diệt chư khổ hộ an ninh
Kính lạy vị đầy đủ tướng tốt không dơ bẩn,
Mưa pháp lợi ích khắp chúng sanh
Tu trì nghi quỹ pháp hạnh nguyện
Nguyện các khổ diệt, được an vui.
(Mật tạng PGVN – Tập 2 - Tr 256)
Lòng Đại Bi của Đức Quán Thế Âm Bồ Tát thật vô lượng vô
biên, Ngài thương xót chúng sanh trầm luân quá đau khổ nên Ngài
đã nguyện làm thuyền từ trong biển khổ để xoa dịu cơn đau, đưa
chúng sanh đến bờ giác ngộ giải thoát, tâm nguyện của
Ngài rộng lớn, ứng hiện ngàn tay ngàn mắt để ngàn nơi cầu xin
kêu cứu thì ngàn nơi cũng đều được lợi lạc.
Quan Âm Bồ Tát diệu nan thù
Thanh tịnh trang nghiêm lũy kiếp tu
Thiên xứ hữu cầu thiên xứ ứng
Khổ hải từ thoàn độ chúng sanh.
Nói đến Quan Thế Âm Bồ Tát, có rất nhiều bài tán thán, ngợi
khen, trong các bài sám, các bài khể thủ, rất nhiều trong kinh
Tạng, ở đây, người viết lượt trích một số đoạn ngắn để
thay cho tấm lòng tôn kính hạnh nguyện đại từ đại bi, vị tha
vô lượng của Ngài mà không thể nào dùng ngôn từ để diễn tả.
Kinh Thiên Thủ Thiên Nhãn Đại Bi Tâm Đà La Ni có chép rằng :
“ Đại oai thần lực của Bồ Tát Quán Thế Âm không thể nào suy
xét bàn luận được. Bồ Tát Quán Thế Âm phát lời thệ nguyện rằng :
“Nếu tôi về đương lai, có thể làm nổi những việc lợi
ích an lạc cho tất cả chúng sanh thì ngay bây giờ đây thân tôi
hãy phát sanh đủ ngàn tay và ngàn mắt”. Quả như vậy, Ngài phát
lời thệ nguyện vừa xong, thì bèn hiện đủ ngàn tay ngàn mắt”.
Thật là vi diệu, Đức Quán Thế Âm Bồ Tát : “Ngàn tay nâng đỡ,
ngàn mắt chiếu soi, khiến cho chúng con, duyên chướng trong
ngoài, thảy đều tiêu sạch”, ngàn cánh tay là để nâng đỡ chúng
sanh, công hạnh của Ngài quá rộng lớn để duy trì Phật
pháp hằng tồn trên thế gian. Ngàn mắt là thể hiện đại bi và đại
trí để xem xét, dùng đủ ngũ nhãn để trọn soi xét tất cả các
căn cơ để cứu khổ sanh tử và ban bố niềm an vui, đưa đến niết
bàn tịnh lạc.
Thần chú Đại Bi chứa đựng tâm đại từ bi vô lượng của Bồ Tát
Quán Thế Âm. Trong Đà La Ni xuất tượng, chú Đại Bi bao gồm 84
câu, cũng có nghĩa là 84 hóa thân của Quan Âm Bồ Tát, mỗi hóa
thân đều mang lại lợi ích an vui cho chúng sanh
Qua toàn bài chú Đại Bi, hình ảnh Đại Từ Đại Bi của Đức Bồ
Tát hiện rõ từng nét, từng cử chỉ, từng động thái của Ngài đều
vì chúng sanh ban vui cứu khổ, đưa chúng sanh đến đường giải
thoát, đạt niết bàn tịch tịnh.
Đức Thế Tôn dạy rằng : “Nầy thiện Nam Tử ! Ngài Quán-Tự-Tại
Bồ Tát, cứu độ không ngừng vô số trăm ngàn Câu–Chi–Na
khố–Đa–Hữu tình, không lúc nào tạm nghỉ, lại đủ đại oai đức quá
hơn Như Lai“. Trừ-Cái-Chướng bạch rằng : “Thưa Thế Tôn !
Ngài Quán – Tự – Tại - Đại – Bồ Tát, làm thế nào có sức đại
oai thần như thế”.
Phật dạy : Nầy Thiện – Nam Tử ! Về kiếp quá khứ có một vị
Phật ra đời, hiệu là Tỳ – Bát – Thi – Như Lai, Ứng-Cúng,
Chánh-Biến-Tri, Minh– Hạnh–Túc, Thiện–Thệ, Thế–Gian–Giải,
Vô–Thượng–Sĩ, Điều–Ngự Trượng –Phu, Thiên–Nhơn–Sư, Phật,
Thế–Tôn. Thời ấy, tôi là con của một nhà Trưởng–Giả, gọi là
Diệu–Hương–Khẩu, nơi chỗ Phật ấy đã nghe công đức oai
thần của Ngài Quán – Tự – Tại Bồ – Tát. Bấy giờ, Trừ Cái Chướng
bạch rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Ngài đã nghe Quán Tự Tại Đại
Bồ–Tát, công đức oai thần như thế nào ? Đức Thế Tôn dạy rằng
: “Ngài Quán–Tự Tại Bồ–Tát, nơi đôi mắt Ngài phát ra mặt
trời, mặt trăng, nơi trán phát ra trời Đại Tự Tại, nơi vai
phát ra trời Đại Biện Tài, miệng phát ra trời Phong Thiên, thân
của Ngài Quán Tự Tại phát ra các trời như thế...”
Phật bảo ngài Quán–Tự–Tại Đại Bồ–tát, ông nay hiện ra thần
thông công đức trang nghiêm ấy là ý chi? Quán Tự Tại thưa :
“Con vì muốn cứu độ tất cả hữu tình trong các ác thú, nghĩa là
tất cả Ngạ Quỷ, A Tỳ Địa Ngục như : Hắc Thằng địa ngục,
Hoạch Than địa ngục, Đẳng Hoạt địa ngục, Thiêu Nhiên địa
ngục, Đường Tối địa ngục, Hàn Băng địa ngục, trong những đại
địa ngục như vậy có các chúng sanh, con đều cứu vớt ra khỏi ác
thú ,sẽ được chứng đắc vô thượng bồ đề chánh đẳng chánh
giác”. Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát nói như vậy rồi, đảnh lễ nơi
chân Phật, lễ xong mà đi, thoạt nhiên biến mất, cũng như ánh
lửa xẹt vào hư không .
Lúc bấy giờ, Bảo Thủ Bồ Tát, bạch Đức Thế Tôn : “Con nay có
điều nghi, muốn thưa hỏi Đức Như Lai, mong Ngài vì con nói ra :
Quán–Tự–Tại Bồ–Tát, có phước đức gì mà hay hiện thần lực như
vậy”. Phật nói : “Như căn – dà–hà–sa–số Như Lai, Ứng
Chánh Đẳng Giác, lấy Thiên Diệu Y và Ca Sa Y, đồ ăn uống thuốc
thang, ngọa cụ …,cúng dường các đức Phật, như vậy phước đức thu
được sánh bằng phước một sợi lông của Quán Tự Tại, lượng
đó không khác. Nầy thiện Nam tử ! Nơi bốn châu lớn, một năm
mười hai tháng, ngày đêm thường mưa lớn, tôi có thể đếm số mỗi
hạt mưa. Thiện nam Tử ! Phước đức của Quán – Tự – Tại, tôi
không thể nói hết số lượng. Thiện – Nam – Tử ! lại như
biển lớn, sâu rộng tám vạn bốn ngàn du thiện na, nước bốn biển
lớn như vậy, tôi có thể đếm số mỗi từng giọt. Thiện nam tử!
Phước đức của Quán – Tự – Tại Bồ – Tát đã có, tôi không thể nói
hết số lượng. Thiện – nam – Tử ! Lại như Bốn – Đại – Bộ
– Châu, loài hữu tình bốn chân như : Sư Tử, Voi, Ngựa, Cọp,
Beo, Sói, Nai, Trâu, Dê ….tất cả những thứ bốn chân như vậy,
tôi có thể đếm số lông trong mỗi thân đã có. Thiện – Nam – Tử !
Phước đức của Quán Tự Tại Bồ – Tát , tôi không thể
nói hết số lượng. Này Thiện Nam Tử! Như có người lấy vàng bán
cõi trời tạo ra hình tượng Như Lai, số nhiều như vi trần, một
ngày đều được thành tựu các thứ cúng dường, đã được công đức
phước báo kia, tôi đều đếm số lượng được. Thiện Nam Tử!
Phước đức của Quán Tự Tại Bồ Tát, tôi không thể nói hết số
lượng. Thiện – Nam – Tử, Lại như Bốn – Đại – Bộ - Châu, có kẻ
Nam – Tử, người Nữ – Nhơn, kẻ Đồng – Nam, Đồng – Nữ, những
người như thế đều thành Thánh Quả Dự Lưu, Nhất – Lai, Bất
Hoàn, A – La – Hán, Quả Duyên – Giác Bồ – Đề, phước đức đã có
như vậy, sánh bằng một sợi lông phước đức của Quán – Tự – Tại
Bồ – Tát, lượng kia không khác” [5,19 – 24]
Kinh Lương Hoàng Sám, phẩm phát tâm hồi hướng, Tr 129 đã
khẳng định : “Nghe tiếng liền cứu khổ như Ngài Quán Thế Âm Bồ
Tát” .
Đức Quán Thế Âm Bồ Tát, khi chưa xuất gia tu hành, thì có
một kiếp, Ngài làm con đầu lòng của vua Vô Tránh Niệm, tên là
Bất Huyến Thái tử.
Trong thời kỳ vua ấy thống trị thiên hạ, thì có Phật Bảo
Tạng ra đời, vua thấy nhơn tâm xu hướng theo lời giáo hóa của
Phật càng ngày càng đông, bèn suy nghĩ rằng : “Nếu đạo Phật
không phải chơn chánh thì đâu có lẽ người ta sùng bái khắp
xứ như vậy ...”
Nên vua mới phát tâm sắm đủ lễ vật đến cúng dường Phật và
chúng tăng trong 3 tháng và khuyên các vị vương tử và đại thần
cũng làm như vậy.
Khi ấy, Bất Huyến Thái Tử vâng lời phụ vương, hết lòng tín
kính, sắm đủ các món ngon quí và đem những đồ trân bảo của mình
mà dâng cúng cho Phật và đại chúng trong 3 tháng, không trễ
nải bữa nào và cũng không món gì kém thiếu.
Quan đại thần Bảo Hải là phụ thân của Phật Bảo Tạng, thấy
vậy khuyên rằng : “Điện Hạ đã sẵn lòng tu phước mà cúng Phật
cúng Tăng, vậy xin Điện hạ hãy đem công đức đó mà hồi hướng về
đạo Vô Thượng Bồ Đề, chớ nên cầu sự phước báu trên cõi
trời Đao Lợi, hay là cõi trời Phạm Thiên làm chi. Bởi vì mấy
cõi ấy, tuy là cảnh vật vui tốt, nhân dân sung sướng, căn thân
đẹp đẽ, thọ mạng lâu dài, đặng phép thần thông, dạo đi tự tại,
những đồ y thực sẵn có, các cuộc du hí đủ bày, trăm
thứ tự nhiên thọ dụng, đủ điều khoái lạc, không có sự khổ như
cõi nhơn gian.
Cái phước báo trong các cõi đó tuy là mỹ mãn như thế, nhưng
còn thuộc về hữu lậu, có hư có mất, chắc chắn gì đâu, chính là
sự vô thường, thật là tướng vô định, thí như cơn gió, thổi mau
không có thế lực gì cầm lại đặng, hết vui thì sẩy ra
buồn, hết sướng thì trở lại khổ, giàu có sống lâu đến mấy ngàn
năm đi nữa, thì cũng không khỏi con ma sanh tử lôi kéo vào
đường nọ ngõ kia.
Nếu Điện Hạ cứ cầu phước báo đó, thì chắc không thoát khỏi
ải sanh tử luân hồi, nếu đã không khỏi luân hồi, thì chưa chắc
lúc nào đặng tiêu diêu tự tại, chi bằng Điện Hạ đem công đức đó
mà cầu món phước báo vô lậu, không hư không mất, đời
đời kiếp kiếp, vượt ra ngoài ba cõi bốn dòng, hưởng sự an vui
vô cùng vô tận, và hồi hướng về đạo Bồ Đề, mà cầu mau thành
Phật Quả, đặng cứu độ chúng sanh khỏi sông mê bể khổ. Vậy
thì phần tự lợi đã vuông tròn, mà đức lợi tha lại đầy đủ
nữa.
Bất Huyến Thái Tử nghe ông Bảo Hải khuyên nói như vậy, bèn
đáp rằng : “Ta xem xét cả thảy chúng sanh ở trong đường Địa
Ngục, chịu sự khổ cực, còn kẻ nhơn gian và người Thiên Thượng
thì đủ điều cấu nhiễm, lắm chuyện trần lao, không có
chút nào đặng thanh tịnh. Bởi đó mà tạo thành tội nghiệp nên
mới thọ quả báo mà đọa vào ba đường dữ là Địa Ngục, Ngạ Quỉ và
Súc sanh”.
Bất Huyến Thái Tử, tự nghĩ rằng : “Bởi chúng sanh ở trong
đời không gặp đặng những người hiền nhơn quân tử, khuyên việc
lánh dữ làm lành mà dìu dắt lên con đường giải thoát, chỉ gặp
những kẻ tàn ác tiểu nhơn củ dụ nhau kết làm bạn bè,
thường xúi giục những điều bất thiện, và lại phá hư chánh pháp,
khinh pháp đại thừa, làm cho mất cả căn lành, thêm điều tà
kiến, vì vậy mới che lấp tâm tánh, không biết đạo đức là gì,
nên phải chịu nỗi đầy đọa.
Bất Huyến Thái Tử ngẫm nghĩ hồi lâu, rồi thưa rằng : “Nay
tôi đối trước mặt Phật, và Đại chúng mà tỏ lời như vầy: “Tôi
nguyện đem tất cả các món công đức tôi đã từng cúng dường Tam
Bảo và các món thiện căn tôi đã từng tu tập pháp mầu mà
hồi hướng về đạo vô thượng Bồ Đề. Tôi nguyện trong khi tôi tu
những điều công hạnh Bồ – Tát, làm những việc lợi ích cho
chúng sanh, nếu tôi xem có kẻ mắc cả sự khốn khổ hiểm nghèo ở
trong hoàn cảnh ám muội, không biết cậy nhờ ai, không
biết nương dựa đâu, mà có xưng niệm danh hiệu tôi, thì tức
thời tôi dùng phép Thiên Nhĩ mà lóng nghe và dùng phép Thiên
Nhãn mà quan sát coi kẻ mắc nạn ấy ở chỗ nào, cầu khẩn việc gì,
đặng tôi hiện đến mà cứu độ cho khỏi khổ và đặng vui.
Nếu chẳng đặng lời thề đó, thì tôi không thành Phật”.
Thưa Đức Thế Tôn ! Nay tôi vì hết thảy chúng sanh mà phát
lòng đại nguyện tu học về pháp xuất thế, lo làm các công hạnh
tự giác tự lợi, nguyện khi phụ vương tôi là Vô Tránh Niệm, trãi
hằng sa kiếp, nhẫn sau thành Phật, hiệu là A Di Đà Như
Lai ở cõi An Lạc Thế Giới, hóa độ chúng sanh xong rồi, chứng
nhập Niết Bàn, chánh pháp truyền lại, thì tôi tu hạnh Bồ Tát,
làm việc Phật sự. Đến lúc chánh pháp gần diệt, hễ diệt bữa
trước thì bữa sau tôi chứng đạo Bồ Đề.
Xin Đức Thế Tôn từ bi mà thọ ký cho tôi và tôi cũng hết lòng
yêu cầu các Đức Phật hiện tại ở hằng sa thế giới trong mười
phương đều thọ ký cho tôi như vậy nữa”.
Đức Bảo Tạng Như Lai nghe mấy lời nguyện ấy, liền thọ ký cho
Bất Huyến Thái tử rằng : “Ngươi xem xét chúng sanh trong cõi
Thiên Thượng Nhơn Gian, và trong ba đường dữ đều mắc những sự
tội báo, mà sanh lòng đại bi, muốn đoạn trừ mọi sự khổ
cực, dứt bỏ những điều phiền não, và làm cho cả thảy đều đặng
hưởng sự an vui. Vì ngươi có lòng soi xét những lời yêu cầu của
loài hữu tình trong thế gian mà cứu khổ như vậy, nên nay ta
đặt hiệu ngươi là Quán Thế Âm.
Trong khi ngươi tu hạnh Bồ tát, thì giáo hóa vô lượng chúng
sanh cho thoát khỏi sự khổ não và làm đủ mọi việc Phật sự.
Sau khi ADiĐà Như Lai nhập Niết Bàn rồi thì cõi Cực Lạc lại
đổi tên là “Nhứt Thiết Trân Bảo Sở Thành Tựu”, y báo càng thêm
tốt đẹp hơn trước đến bội phần, chừng đó, đương lúc ban đêm, độ
trong giây phút, có hiện ra đủ thứ trang nghiêm, thì
ngươi sẽ ngồi trên tọa Kim Cang ở dưới cây Bồ Đề mà chứng ngôi
Chánh giác, hiệu là : “Biến Xuất Nhứt Thiết Quang Minh Công Đức
Sơn Vương Như Lai” , phước tròn hạnh đủ, muôn sự vẻ vang,
đạo pháp cao siêu, thần thông rộng lớn, rất tôn rất quí,
không ai sánh bằng, mà lại sống lâu đến chín mươi sáu ức na do
tha kiếp, rồi khi diệt độ thì chánh pháp còn truyền bá lại đến
sáu mươi ba ức kiếp nữa”
Bất Huyến Thái Tử nghe Phật Bảo Tạng thọ ký rồi, liền vui
mừng mà thưa rằng : Bạch Đức Thế Tôn ! Nếu sự thệ nguyện của
tôi quả đặng hoàn mãn như lời ngài nói đó, thiệt là hân hạnh
biết bao ! Nay tôi lạy ngài xin làm thế nào cho các Đức
Phật hiện ở hằng sa thế giới cũng đều thọ ký cho tôi và khiến
cho cả thảy thế giới đều đồng thời vang ra những tiếng âm
nhạc, và các chúng sanh nghe tiếng ấy đều đặng thân tâm thanh
tịnh mà xa lìa mọi dục vọng trên đời”.
Lúc Bất Huyến Thái Tử thưa rồi, đương cúi đầu lễ Phật, tức
thì các thế giới tự nhiên rúng động vang rền, kêu ra những
tiếng hòa nhã, ai ai nghe đến cũng sanh lòng vui vẻ, làm cho
các điều dục vọng bỗng nhiên tiêu tan cả.
Khi ấy, thoạt nghe các Đức Phật ở mười phương đồng thinh thọ
ký cho Quán Thế Âm rằng : “Đương khi thời kiếp Thiên Trụ, ở
tại cõi Tán Đề Lam thế giới, nhằm lúc Phật Bảo Tạng ra đời mà
giáo hóa chúng sanh, có con của vua Vô Tránh Niệm, tên
là Bất Huyến Thái Tử, phát tâm cúng dường Phật và đại chúng
trong 3 tháng, do công đức đó, nên trải hằng hà sa kiếp sẽ
thành Phật, hiệu là “Biến Xuất Nhứt Thiết Quang Minh Công Đức
Sơn Vương Như Lai, ở về thế giới Nhứt Thiết Trân Bảo
Sở Thành Tựu”.
Bất Huyến Thái Tử khi đặng chư Phật thọ ký rồi, thì lòng rất
vui mừng. Đến khi mạng chung, thì Ngài thọ sanh ra các đời
khác, trải kiếp nọ qua kiếp kia, hằng giữ bổn nguyện, gắng công
tu hành, cầu đạo Bồ Đề, làm hạnh Bồ Tát, chăm lòng
thi hành những sự lợi ích cho chúng sanh, không có khi nào mà
Ngài quên cái niệm đại bi đại nguyện. Hiện nay Quán Thế Âm đã
chứng bậc Đẳng Giác Bồ Tát, ở cõi Cực Lạc mà hầu hạ Đức Phật A
Di Đà, hằng ngày tiếp dẫn chúng sanh trong mười phương
đem về cõi ấy. Đến sau Đức Phật ADiĐà nhập Niết Bàn rồi, thì
Ngài kế ngôi Phật vị mà giáo hóa chúng sanh.
Kinh Pháp Hoa, phẩm Phổ Môn có câu tán thán Ngài : “Từ nhãn
thị chúng sanh”, nên tại chùa Phước Hòa, Gò vấp có đôi câu đối
thờ tại tượng Ngài như sau :
“Ngọc tướng trừng Nam Hải chi ba
Khát ngưỡng ứng thân thị quang thánh cứu
Phổ môn tế quần sanh chi khổ
Nguyện thùy pháp nhãn phủ giám phàm tâm”
Hình ảnh Đức Quán Thế Âm qua các sắc diện của Quan Âm Ta Ra
và qua các đức tính Đại Từ Đại Bi, ngoài pháp tu trì niệm chú
Đại Bi, trong kinh Pháp Hoa, Phẩm Phổ Môn Đức Phật dạy chúng ta
nên trì niệm danh hiệu của Ngài : “Nam Mô Đại Từ Đại
Bi tầm thanh cứu khổ cứu nạn linh cảm ứng Quán Thế Âm Bồ tát”,
thì chúng ta cũng sẽ đạt được rất nhiều lợi ích qua 32 ứng thân
của Ngài, “hữu cầu giai ứng, vô nguyện bất tùng”, với lòng
thành tha thiết cầu xin thì Ngài ứng hiện, cũng như con
có khóc, mẹ mới cho bú, chúng ta hằng ngày không tưởng nhớ đến
Bồ tát, thì làm sao bắt được dòng điện cảm ứng từ Ngài, cũng
như chúng ta đã có sẵn ti vi và cần Ănh ten, nhưng chúng
ta phải cắm điện và bắt sóng. Việc cắm điện giống như chúng
ta nguyện xin với Ngài và việc bắt sóng là hằng ngày chúng ta
phải nhớ tưởng đến Ngài, đến khi hữu sự, mới thấy được sự linh
ứng cảm được từ nơi Ngài.
Lời Phật dạy là “chơn thật ngữ”, không hư dối, chúng ta nên y
theo hành trì để tự thân được hưởng phần lợi lạc, cùng lợi lạc
cho gia đình và xã hội.
CHƯƠNG 3: TÂM PHÁP CỦA MẬT TÔNG QUA BÀI CHÚ ĐẠI BI
3.1 ẤN PHÁP
Ấn pháp, gọi tắt là Ấn, tức là sự lưu xuất của Bổn Tâm thanh tịnh, cũng gọi là Tâm Ấn.
Theo “Thiên Thủ Thiên Nhãn Pháp Bửu Chân Ngôn Đồ “ thì chú
Đại Bi bao gồm 42 ấn pháp. 42 pháp ấn này là chỗ diệu hành của
chư Bồ tát lưu xuất ra. 42 pháp ấn và chú Đại bi có liên hệ mật
thiết với nhau, được Hòa thượng Tuyên Hóa ví như tay
và chân của một cơ thể. Nếu chúng ta chỉ niệm tụng kinh văn của
chú Đại bi mà không hành trì 42 ấn pháp thì giống như một
người có tay mà không có chân, nên không thể đi được .Nếu chúng
ta chỉ hành trì 42 ấn pháp mà không niệm tụng chú Đại
Bi thì cũng giống như người chỉ có chân mà không có tay nên
không thể cầm đồ vật và cũng không thể làm gì được. Do vậy, nên
khi tụng trì chú Đại Bi, chúng ta cần phải thông đạt 42 ấn
pháp.
Đây là “Như Ý Châu Ấn Pháp”. Nếu muốn được sự giàu có, nhiều
đồ đạc châu báu, nên làm theo tay “Như Ý Châu”. Pháp ấn này
khi hành trì thành tựu thì chỗ diệu dụng của nó rất lớn, mọi
lúc mọi nơi đều giàu có, không lo nghèo nàn. Phước báu
và trí tuệ vô lượng vô biên. Chân ngôn : Án, phạ nhựt ra, phạ
đá ra, hồng phấn tra.
Đây là “Quyến sách Ấn Pháp”. Nếu có những sự bất an, làm
theo tay “Quyến Sách”. Pháp ấn này có công năng đưa hành giả
đến những chỗ an vui như ý, sợi dây trên tay Quyến Sách được
kết bằng những sợi chỉ ngũ sắc, khi hành trì pháp ấn này
thành tựu, hành giả phóng sợi dây này ra phía ngoài thì tất
cả yêu quỉ, ma quái, ly mỵ, vọng lượng đều bị trói chặt, sau đó
hành giả tìm cách giáo hóa để chúng quay đầu hướng thiện. Do
đó, sự nhiệm mầu của pháp ấn này rất khó lường. Chân
ngôn : Án chỉ rị lả ra, mô nại ra, hồng phấn tra.
Đây là “Bảo Bát Ấn Pháp” hành giả muốn trừ các chứng bệnh
trong bụng, nên làm theo tay Bảo Bát này. Chân ngôn : Án chỉ
rị, chỉ rị, phạ nhựt ra, hồng phấn tra.
Đây là “Bảo Kiếm Ấn Pháp”, pháp ấn này có công năng phá tan
và hàng phục tất cả thiên ma ngoại đạo. Chân ngôn : Án đế thế
đế nhả, đổ vĩ nảnh, đổ đề bà đà dã hồng phấn tra.
Đây là “Bạt Chiết La Aán Pháp” , hành giả tu trì thành tựu
pháp ấn này, có thể phát ra tiếng sấm sét, tiếng vang của nó
làm cho tất cả Thiên Ma Ngoại Đạo đều bị hàng phục. Chân ngôn:
Án - Nể bệ nể bệ, nể bà dã, ma ha thất rị duệ tát phạ
hạ.
Đây là “Kim Cang Xử Ấn Pháp”, pháp ấn này có công năng trừ
dẹp tất cả các sự oán địch. Chân ngôn : Án phạ nhựt ra chỉ
nảnh, bát ra nể, bát ra dã, tát phạ hạ.
Đây là “Thí Vô Úy Ấn Pháp”, pháp ấn này có công năng trừ
những sự sợ hãi khủng khiếp, đạt được sự yên ổn vui vẻ. Chân
ngôn : Án phạ nhựt ra nẳng dã, hồng phấn tra.
Đây là “Nhựt Tinh Ma Ni Ấn Pháp” pháp ấn này có khả năng
chữa trị những bệnh về mắt như đui, mờ trở nên được sáng tỏ.
Chân ngôn : Án độ tỉ, ca giả độ tỉ, bát ra – phạ rị nảnh, tát
phạ hạ.
Đây là “Nguyệt Tinh Ma Ni Ấn Pháp”, khi hành giả bị những
bệnh nhiệt độc, muốn cầu được sự mát mẻ, nên thực hành pháp ấn
này. Chân ngôn: Án tô tất địa yết rị tát phạ hạ.
Đây là “Bảo Cung Ấn Pháp” tu trì pháp ấn này, người tại gia
có thể làm Đại Quan, người xuất gia có thể chứng quả Alahán.
Chân ngôn : Án tả vĩ, lệ, tát phạ hạ.
Đây là “Bảo Tiển Ấn Pháp” . Hành trì pháp ấn này, hành giả
dễ dàng được gặp bạn tốt, thiện hữu trí thức. Chân ngôn : Án
ca mạ lã, tát phạ hạ.
Đây là “Dương Chi Thủ Ấn Pháp” . Hành giả muốn trừ các chứng
bịnh trong thân mình, nên làm theo tay Dương Chi. Chân ngôn :
Án – Tô tất địa, ca rị phạ rị, đa mẫn đa, mục đa duệ, phạ nhựt
ra, phạ nhựt ra, bạn đà, hạ nẵng hạ nẵng, hồng phấn
tra.
Đây là “Bạch Phất Thủ Ấn Pháp”. Ấn pháp này có công năng
diệt trừ tất cả chướng nạn hung ác. Chân ngôn : Án – bát na di
nảnh, bà nga phạ đế, mô hạ dả nhá, nga mô hạ nảnh, tát phạ hạ.
Đây là “Hồ Bình Ấn Pháp”, hành giả hành trì pháp ấn này thì
khéo léo điều hoà được các quyến thuộc. Chân ngôn : Án – yết
lệ, thảm mãn diệm tát phạ hạ.
Đây là “Bàn Bài Ấn Pháp” Hành Giả hành trì Pháp Ấn này tránh
được ác thú: cọp, beo, sư tử làm hại. Chân ngôn: Án – dược các
sam nẳng na dả chiến nại, ra đạt nậu bá rị dả, bạt xá bạt xá,
tát phạ hạ.
Đây là “Phủ Việt Ấn Pháp”, hành trì pháp ấn này, hành giả
tránh được những nỗi oan uổng về lao hình quốc pháp, tránh các
chướng nạn về quan quyền. Chân ngôn : Án – vị ra dả, tát phạ –
hạ.
Đây là “Ngọc Hoàng Ấn Pháp” . Ấn pháp này có công năng làm
cho tất cả chúng sanh đều nghe theo sự giáo hóa của hành giả,
hành trì pháp ấn này, hành giả muốn có con trai, con gái, tôi
tớ, đều được thành tựu. Chân ngôn : Án – bát na hàm vị
ra dả, tát phạ hạ.
Đây là “Bạch Liên Hoa Ấn Pháp”, ấn pháp này thành tựu tất cả
các thứ công đức, bao hàm tất cả hành sự của lục độ vạn hạnh.
Chân ngôn : Án – phạ nhựt ra, vị ra dả, tát phạ hạ.
Đây là “Thanh Liên Hoa Ấn Pháp”, Ấn pháp này thành tựu mùi
hương hoa sen xanh, được mười phương chư phật tán thán, cầu
sanh về cõi Tịnh–Độ được toại nguyện. Chân ngôn : Án –chỉ rị
chỉ rị, phạ nhựt ra, bộ ra bàn đà, hồng phấn tra
Đây là “Bửu Cảnh Ấn Pháp”, thành tựu ấn pháp này, hành giả
thành tựu được Đại trí Tuệ. Chân ngôn : Án – Vĩ tát phổ ra, na
ra các xoa, phạ nhựt ra, mạn trà lả, hồng phấn tra.
Đây là “Tử Liên Hoa Ấn Pháp”, thành tựu pháp ấn này, hành
giả thấy được các Đức Phật trong mười phương. Chân ngôn : Aùn –
tát ra tát ra, phạ nhựt ra ca ra, hồng phấn tra.
Đây là “ Bửu Khiếp Ấn Pháp”, thành tựu pháp ấn này, hành giả
thấy được các vật quí chôn giấu dưới đất. Mặt khác, ở nơi lý
thể tự tánh, hành giả luôn luôn được tự tại, thành tựu vô lượng
công đức. Chân ngôn : Án – phạ nhựt ra, bá thiết ca
rị, vết nẳng hàm ra hồng .
Đây là “Ngũ Sắc vân Ấn Pháp” , pháp ấn này lưu xuất ra mây
lành ngũ sắc, tự tại phi thường, hành giả thành tựu được
Tiên–đạo .
Đây là “Quân Trì Ấn Pháp” , thành tựu ấn pháp này, hành giả
được sanh lên các cõi trời Phạm Thiên. Chân ngôn : Án – phạ
nhựt ra, thế khê ra, rô tra hàm tra.
Đây là “Hồng Liên Hoa Ấn Pháp “, hành giả hành trì ấn pháp
này, ước nguyện sanh lên bất cứ cõi trời nào cũng đều được
thành tựu. Chân ngôn : Án – thương yết lệ, tát phạ ha.
Đây là “Bửu Kích Ấn Pháp” pháp ấn này có thể hàng phục
thiên ma – ngoại đạo, dẹp trừ oán địch. Chân ngôn : Án – thảm
muội dã, chỉ nảnh hạ rị, hồng phấn tra.
Đây là “Bửu Loa Ấn Pháp” , thành tựu pháp ấn này, hành giả
có thể kêu mời tất cả chư thiên và thiện thần. Chân ngôn : Án –
thương yết lệ, mạ hạ thãm mãn diệm, tát phạ hạ.
Đây là “Cô Lâu Trượng Ấn Pháp”, hành giả hành pháp này muốn
sai bảo hết thảy Quỉ thần đều được. Chân ngôn : Án – độ nẳng
phạ nhựt ra – xá.
Đây là “Số Châu Ấn Pháp” , hành trì pháp này, hành giả được
các Đức phật trong mười phương đưa tay tiếp dẫn. Chân ngôn :
Nẳng mồ ra đát nẵng, đát ra dạ dả, án a na bà đế vĩ nhá duệ,
tất địa tất đà lật thế, tất phạ hạ.
Đây là “Bửu Đạc Ấn Pháp”, thành tựu pháp này, hành giả thành
tựu được tất cả Phạm – Âm – Thanh mầu nhiệm. Chân ngôn : nẳng
mồ – bát ra hàm bá noa duệ. Án – a mật lật đảm, nghiểm bệ thất
rị duệ, thất rị chiến rị nảnh, tát phạ hạ.
Đây là “Bửu – Ấn Ấn Pháp”, thành tựu pháp ấn này, tất cả mọi
lời lẽ nói năng của hành giả đều được tất cả mọi người lắng
nghe, vâng làm. Chân ngôn : án , phạ nhựt ra, nảnh đảm nhá duệ,
tát phạ ha.
Đây là “Cu Thi Thiết Câu Aán Pháp”, hành trì pháp ấn này,
hành giả có thể triệu tập sai bảo tất cả quỷ thần. Được các vị
Long Vương Thiện – Thần thường đến ủng hộ. Chân ngôn : Án – a
cô lô, đa ra ca ra, vỉ sa duệ. Nẳng mồ tát phạ ha.
Đây là “Tích Trượng Ấn Pháp”, hành giả hành trì pháp ấn nầy,
thành tựu lòng từ bi che chở cứu hộ tất cả chúng sanh. Chân
ngôn : Án – na lật thế, na lật tra bát đễ, na lật đế na dạ bát
nảnh, hồng phấn tra.
Đây là “Hiệp Chưởng Ấn Pháp”, hành trì pháp ấn này có thể
khiến cho tất cả quỷ thần, long xà, hổ lang, sư tử, nhơn và phi
nhơn cung kính, yêu mến. Chân ngôn :Án – bát nạp mạng nhá
lăng, ngật rị.
Đây là “Hóa phật Ấn Pháp”, hành trì pháp ấn này, hành giả
sanh ở bất cứ nơi nào, đều luôn được ở một bên các Đức Phật.
Chân ngôn : Án – chiến na ra, bà hàm tra rị, ca rị na, chỉ rị
na, chỉ rị nỉ, hồng phấn tra.
Đây là “Hóa Cung Điện Ấn Pháp” , hành giả thọ trì ấn pháp
này, đời đời kiếp kiếp thường ở trong cung điện các Đức Phật,
không bao giờ còn thọ sanh vào noãn sanh, thai sanh, thấp sanh,
hóa sanh. Chân ngôn : Án – vi tát ra vi tát ra, hồng
phấn tra
Đây là “Bửu Kinh Ấn Pháp” , hành giả hành trì ấn pháp này sẽ
có năng lực đa văn, nghe nhiều học rộng. Chân ngôn : Án – a hạ
ra, tát ra phạ ni, nễ dã đà ra, bố nễ đế tát phạ hạ.
Đây là “Bất Thối Kim Cang Luân Ấn Pháp”, hành giả hành trì
pháp ấn này luôn tinh tấn dũng mãnh với tâm Bồ đề kiên cố không
thoái chuyển. Chân ngôn : Án – thiết ra di tả, tát phạ hạ.
Đây là “Chưởng Thượng Hóa Phật Ấn Pháp”, hành giả hành trì
pháp ấn này đời đời kiếp kiếp thường được chư Phật mười phương
xoa đầu thọ ký, thường được vào cảnh giới chư Phật. Chân ngôn :
Án – Phạ Nhựt rị ni, phạ nhựt lãm nghệ, tát phạ hạ.
Đây là “Bồ Đào Ấn Pháp”, hành trì pháp ấn này, nơi chỗ hành
giả cư trú, các thứ trái cây lúa mạ đều được chín mọng, tươi
mát, ngon ngọt. Chân ngôn : Án – a ma lã kiếm đế nễ nảnh, tát
phạ hạ.
Đây là “Cam Lồ Ấn Pháp”, hành giả hành trì pháp ấn này làm
cho tất cả loài hữu tình, đang đói khát, lại được no đủ an
lành. Chân ngôn : Án – tô rô tô rô, bát ra tô rô, bát ra tô rô,
tô rô tô rô dã, tát phạ hạ.
Đây là “Tổng Nhiếp Thiên Tý Pháp Ấn”, hành trì pháp ấn này
có thể hàng phục tất cả các oán ma trong Tam Thiên Đại Thiên
thế giới. Chân ngôn: Đát nể dả thá, phạ lô chỉ đế, thấp phạ ra
dả, tát bà đốt sắc, tra ô hạ di dã, tát phạ hạ.
3.2 MẠN ĐÀ LA
Mạn – Đà – La là phiên âm của chữ Phạn Man đala, cũng gọi là
Mạn – Đồ – La, Tát – mã – Đà – La, Mạn – Đát – la, Mạn – Hô –
La, Mạn – ma – La.
Mạn – Đà – La còn gọi là Đàn – tràng, Đàn – Pháp hay Đạo
Tràng, tức là chỉ cho vùng đất, nơi hành giả ngồi tu tập ,tịnh
ba nghiệp để đắc đạo quả Bồ – Đề.
Trong quyển “Tứ Chủng Mạn – Đà – La Nghĩa” Có giải thích:
“Mạn Đà La, Cựu dịch gọi là Đàn, tân dịch là Luân – Viên Cụ –
Túc” ... “Đàn” chỉ lấy ý nghĩa là bằng phẳng …nhưng thật ra còn
thiếu nhiều ý nghĩa như : Khế – Ấn, tam – mật; ngũ
luân …còn nghĩa “Luân – Viên cụ – túc”, vì những ý nghĩa khác
như : không chi hơn, pháp vị không chi sánh bằng, đều gồm đầy
đủ trong đó.
Mạn – Đà – la, do nghĩa là vòng tròn đầy đủ (luân viên cụ
túc), nên Mạn – Đà – La chính là biểu tượng của vũ trụ được thu
nhỏ lại và năng lực trong vũ trụ được trình bày qua các hình
vẽ.
Về hình tướng, Mạn-Đà-La có bốn hoặc năm loại khác nhau.
Theo kinh Tỳ Lô Giá Na, có bốn loại là Đàn Vuông, Đàn Tròn, Đàn
Hình Tam Giác, Đàn Hình Bán Nguyệt. Trong đó, Đàn Vuông phối
hợp với Địa đại, Đàn tròn phối hợp với thủy - đại và
không –đại , đàn tam giác với hỏa đại, đàn bán nguyệt với phong
đại. Đàn vuông là nghĩa Bình – Đẳng (vì tướng đất vuông) Đàn
tròn nghĩa viên mãn (vì hư không và nước tròn). Đàn tam giác
mang nghĩa hàng – phục (tướng lửa bốc lên hình tam
giác). Đàn bán – nguyệt là nghĩa đẹp – trừ – nạn – tai (vì gió
hay xô ngã các vật).
Theo kinh Kim Cang đảnh, Mạn – Đà – La gồm có năm loại là
Đàn Vuông, Đàn Tròn, Đàn Hình Tam giác, Đàn Hình Hoa Sen và Đàn
Hình Kim Cang.
Theo kinh Đại Nhật, Mạn Đà La của Đức Quán Thế Âm được mô tả như sau :
Lại nữa, Bí - Mật - Chủ!
Phật tử ! hãy lắng nghe!
Bí mật Mạn – Trà – La
Của Đức Quán Tự Tại (Avalokitesvara)
Trùm khắp cả bốn phương
Giữa : Cát tường thương khư (San kha)
Xuất sanh hoa Bát – đàm (Padma)
Mở bày, chứa các hột
Trên, có chày kim cang (vaj ra)
Trên, Đại – Liên - Hoa Ấn
(Lớn hơn Liên Hoa phía dưới)
Bày tất cả chủng tử
Thiện xảo dùng làm mầm
Đà – la (Tara), Tỳ – câu – chi (Bhrkuti)
Cùng với bạch Y Tôn ( Pandaravasini)
Minh – phi chủ tư tài (Vidya Bhogavati)
Cùng ấn Đại – Thế – Chí (Mahasthama prapta)
Làm tiêu biểu thù thắng
Đồng trụ đàn tứ giác
Hà – Da – yết – Lật – Phạ (Hayagriva)
Trụ tam giác như pháp
Mạn đà la vây quanh
Aùnh sơ nhựt nghiêm tốt
Luôn tại bên Minh Vương (kế Đại – Thế – Chí)
Bậc xảo tuệ an lập.
[12, 266 – 267]
Nơi nội viện ở phương bắc (bên phía bắc của Đức Đại Nhựt Thế
Tôn, tức phương Tây mà thế gian quan niệm), nên vẽ Đức Quán tự
tại (Avalokitesvara) Thế Tôn, do Ngài quán sát mười
câu – duyên-sanh được thành tựu Liên – Hoa Phổ - Nhãn nên gọi
là Bồ tát. Ngài an trụ trên một đài sen. Trên đảnh hiện Vô -
Lượng – Thọ (Amitayus), là biểu hiện rõ quả rốt ráo của các
hạnh, tức là trí phương tiện phổ môn của Như Lai. Hình tượng
của Đức Quán - Tự -Tại Thế Tôn trụ hiện pháp lạc, dung
mạo vui vẻ mỉm cười, thân Ngài Quán - Tự – Tại như màu mặt
nguyệt trong sáng, hoặc như thương khư (vỏ ốc), lóng lánh như
xà cừ thượng diệu, hoặc như quân na (Kunda) hoa, màu trắng
tinh.
Bên phải Ngài Quán Tự Tại, tức là phía trên của Đức Thế Tôn,
có Đức Đa La (Arya Ta ra)Bồ Tát, ngài hiện thân nữ nhơn vào
khoảng trung niên với thân màu trắng xanh. Nữ Bồ Tát Đa La cầm
một đóa hoa sen xanh phóng quan rực rỡ chiếu suốt mười
phương, tay và mặt đều hướng về phía Đức Quán Tự Tại Thế Tôn,
hình như mỉm cười, thân tròn sáng như màu tịnh kim, mặc áo
trắng, đầu có búi tóc, quang minh tỏa ra từ thân màu vàng ròng.
Bên trái Ngài Quán Tự Tại Thế Tôn, tức phía dưới của Đức Thế
Tôn, có đức Tỳ – Câu – Chi (Bhrkuti) Bồ Tát, Ngài hiện thân nữ
nhơn vào khoảng trung niên với thân màu trắng, có bốn tay, tay
trái thứ nhất cầm hoa sen nở, tay trái thứ hai cầm
bình quân trì, tay phải thứ nhất cầm chuỗi hột, tay phải thứ
hai kiết ấn thí nguyện, ba mắt, đầu có búi tóc, quang minh tỏa
ra từ thân Ngài màu vàng, đỏ và trắng pha lẫn nhau.
Kế đến, gần bên trái Ngài Tỳ – Câu – Chi (Bhrkuti) thì vẽ
Ngài Đắc Đại Thế Chí (Mahasthamaprapta). Ngài mặc bạch y, tay
cầm hoa sen chưa nở, tượng trưng cho tâm hoa bổn nguyên
của chúng sanh, phát ra quang minh màu tròn (Ngài cũng chính
là một vị Trì Minh Vương của Liên Hoa Bộ). Bên trái Ngài vẽ một
vị Minh Phi (vidyarajni) gọi là Da Du Đà La (Yasodhara) còn
gọi là Trì Danh Xưng, thân màu vàng ròng, đeo nhiều vòng
anh lạc, tay trái cầm nhánh cây tươi đẹp và tay phải kiết ấn
thí nguyện. Ngồi trên đài sen, chân trái trong tư thế của Bồ
Tát tọa.
Kế bên nữ Bồ Tát Đa La (Tara) vẽ hình Bạch -Y-Tôn
(Panduravasini) (còn gọi là Bạch-Y-Quán-Thế-Âm-Bồ-Tát), thân
Ngài màu vàng chiếu sángrực rỡ, được trang sức bằng những vòng
hoa sen trắng, vẻ mặt đoan nghiêm, tay trái để ngang
ngực, cầm đóa hoa sen nở lớn, tay phải tại ngang thắt lưng kiết
ấn thí nguyện.
Phía sau của Đức Bạch Y là Trì-Minh-Vương Đại – Lực Hà – Da –
Yết – Lật – Phạ (Mahapala – Hagagriva – vidyaraja) (chính là
Mã Đầu Quán Thế Âm, hoặc Sư Tử Hống Quán Thế Âm Bồ Tát) thân
màu như mặt trời mới mọc, ba mặt, ba mắt, lông tóc dài
dựng lên như bờm sư tử, vuốt bén nhọn, hai nanh mọc ngược lên,
trông rất dữ tợn, có hình ngựa trên đỉnh đầu, tay bắt ấn căn
bản, ngồi trên đài sen, chân phải trong tư thế Bồ–Tát tọa,
chư vị đó là những vị Bồ Tát theo hầu Đức Quán tự tại
trong tam muội (samadhi) (đại diện cho cung quán tự tại). [12,
85 – 87]
Lúc bấy giờ, Ngài Kim Cang Thủ Bí Mật Chủ lại bạch Phật rằng
: “Bạch Thế Tôn! Mạn Trà La (Mandala) nầy, nên gọi tên là gì ?
Mạn–Trà–La là nghĩa làm sao ?
Phật dạy : “Nó tên là Mạn–Đà–La sanh chư Phật, vị của nó là
vị cùng cực, không có vị nào có thể sánh bằng, không vị nào cao
hơn được. Vì vậy, nên gọi là Mạn - Đà - La. Lại nữa, Bí mật
Chủ!Vì cứu vớt vô biên chúng sanh giới mà nới rộng Mạn
Đà La nầy thành thai Tạng Đại Bi sanh Mạn Đà La. [12,69]
Trong “Lời Đáp Nghĩa”, thì chữ Phạn “Mạn - Đà-La” Nghĩa là :
khuấy cho sữa đặc lại thành lạc, để cho lạc đọng lại thành tô,
do đó, Mạn Đà La nghĩa là hết sức tinh thuần, như tô nổi trên
lạc vậy. Do sự tinh thuần chẳng biến đổi, nên nói là
vị tinh diệu bền vững, cùng hòa hiệp lẫn nhau, chẳng lẫn lộn
với các vật khác, cho nên có nghĩa “Tu – tập ”. Bởi vậy, Phật
dạy “vị của nó, không có vị nào so sánh bằng, không có vị nào
cao hơn được” nên nói là Mạn – Đà – La vậy,
Dùng phương tiện “tam mật” khuấy sữa Phật tánh của chúng
sanh, cho đến khi nó trải qua năm vị, thành đề hồ diệu giác
thuần tịnh,dung hòa, vi diệu chẳng có thể lại tăng thêm, tất cả
trí ấn kim cang đều cùng nhóm họp trong vị cam lồ bậc
nhất, chơn thường, chẳng biến đổi, là nghĩa của Mạn-Đà-La.
Trong kinh Đại Nhật Thích Nghĩa, môn chân ngôn của Chư Bồ
Tát hạnh, cũng phải nối theo chủng tánh Như Lai, bắt chước Chư
Tôn trụ bản vị mạn – Đà – la, làm các sự nghiệp. Như muốn làm
các sự nghiệp tịch tai, tức phải làm thân bổn tôn mà
trụ Mạn – Trà – La hình tròn, muốn làm sự nghiệp Tăng Ích thì
phải trụ Mạn – Đà – La hình tam giác, muốn làm sự việc Nhiếp -
Triệu thì trụ Mạn Đà la hình bán nguyệt, muốn xuất sanh các
loại trang nghiêm thì trụ Mạn Đà la tạp sắc, trụ như
thế, có thể khiến cho hành giả uy nghiêm, đồng với Bổn Tôn. Tất
cả các vị làm chướng ngại , không ai có thể lấn đoạt được, ...
suy rộng ra thì lời Phật dạy trong kinh có nghĩa là : Màu
vàng là sắc thân Kim Cang phải ở trong nhân – đà – la hình
vuông , màu trắng là màu từ bi thanh tịnh, phải ở tại đàn
tròn, màu đỏ là màu trừ chướng uy mãnh, phải ở trong hình tam
giác , màu đen là màu gió lớn kiếp hỏa, phải ở trong hình
bán nguyệt, màu xanh là màu hư không chẳng hoại, chẳng hàng
phục được , nhiều màu là chư vị Trì Minh Vương phẩn nộ hoặc
tại hình tam giác, hoặc trong hình bán nguyệt. Trong ba màu
trắng, vàng, đỏ, bộ loại Như Lai dùng màu trắng, quyến thuộc
Liên Hoa dùng màu vàng, quyến thuộc kim cang dùng màu
đỏ. Đàn tròn dùng màu trắng, đàn vuông dùng màu vàng, đàn tam
giác dùng màu đỏ.
Hành giả lúc mới phát tâm Nhất-Thiết-Trí, cũng như nhân có
sự hòa hợp của cha mẹ, chủng thức của người con nương theo đó
mà bắt đầu gá vào trong thai, dần dần được nuôi dưỡng lớn lên,
cho đến lúc sanh ra, các căn đều đầy đủ. Ban đầu, lúc
gá vào thai mà đầu sanh, giống như dựa vào môn chân ngôn học
vạn hạnh đại bi cho tịnh tâm hiển hiện. Đến khi đứa bé sinh ra,
dần đầy đủ nhơn pháp – khởi phương tiện tu trị tự địa, theo
duyên làm lợi lạc muôn vật, cứu độ chúng sanh, cho nên
gọi là “sanh thai tạng” đại bi, lúc mới nhập môn tịnh tâm Bồ
Đề, thấy pháp minh đạo, như chủng thức ca-la-la, trong bảy địa
trước làm vạn hạnh đại bi để tự trưởng dưỡng, như tại thai
tạng không có công dụng, từ đó dần dần học phương tiện của
Như Lai, như đứa bé đã sanh ra, tập các kỹ nghệ đến địa nhất
thiết trí của Như Lai, như kỹ nghệ đã thành, đem ra thi thố
theo con đường chánh, nên gọi là sanh thai tạng Đại
bi.
Lại đây là một loại Mạn – Đà – La bí mật vậy. Nay dùng hoa
sen làm thí dụ cho hiểu ý nghĩa Mạn –Đà – La, như hạt giống hoa
sen đang ở trong cái vỏ cứng chắc của nó, nó có các tánh của
cành nhánh lá hoa, như nhiên đầy đủ, giống như tâm
chủng tử của người thế gian; từ đó, lần hồi nó tăng trưởng cho
đến lúc mới sanh cái nụ hoa, lúc đó thì đài hoa, thật quả đều
ẩn trong cánh của nụ hoa, như tâm xuất thế gian còn ở trong các
uẩn, lại nhờ cánh của nụ hoa che chở, cho nên không
bị các duyên gió, nhụy ngày đêm thêm tốt tươi, giống như thai
tạng đại bi đã thành tựu. Rồi trong ánh sáng chói lọi của mặt
trời, hoa sen nở ra, như phương tiện đã đầy đủ .
Nói về ý nghĩa của Mạn – Đà – La trong Diệu Pháp Liên Hoa
thì thương tâm bản địa của Đức Tỳ Lô Giá Na tức là cái thế tròn
đủ của hoa tạng, quả đức đề hồ của bốn vị Phật , bốn vị Bồ
tát, là quả thật đều thành, trí ẩn sai biệt, mật huệ Kim
Cang trong mười thế giới bằng số bụi nhỏ giống như râu nhụy,
các môn ba la mật, vạn hạnh đại bi của mười thế giới bằng số
bụi nhỏ giống như hoa tạng, vô lượng ứng thân trong sáu đường
của ba thừa giống như gốc cành nhánh lá, hiện tướng rõ
ràng trong vận tròn khắp đầy đủ cho nên gọi là Mạn – Đà – La.
Nhờ sức gia trì của Như lai cho nên từ tánh đức tự chứng tâm
Bồ Đề của Phật hiện ra tám cánh hoa trong thân thai tạng, từ
mật ấn kim cang, hiện ra các nội quyến thuộc như Kim - Cang –
Thủ….Thuộc tầng lớp thứ nhất, từ vạn hạnh đại bi, hiện
ra các đại quyến thuộc như Ma – Ha – tát – đỏa, thuộc tầng lớp
thứ hai, từ các phương tiện phổ môn, hiện ra các loại thân của
tất cả chúng sanh vui thấy nhau, thuộc tầng lớp thứ ba.
Nếu đứng ở cương vị luân vương từ trên cao rải xuống để so
sánh, thì tầng thứ ba như các vị vua đứng đầu muôn nước , tầng
thứ hai như trăm quan ở triều đình, tầng thứ nhất như những vị
thân thích của nhà vua và những người cung phụng cho
Ngài. Bởi vậy, đài hoa thường đặt làm Đại Mạn - Trà – La
Vương.
Nếu từ gốc rủ xuống các dấu vết chung quanh, ắt từ giữa thai
mỗi môn đều lưu xuất các môn ở tầng thứ nhất, từ mỗi môn ở
tầng thứ nhất lưu xuất các môn ở tầng thứ hai, từ mỗi môn ở
tầng thứ hai lưu xuất các môn ở tầng thứ ba. Nếu đi từ
nhân đến quả, ắt sự dẫn nhiếp ở tầng thứ ba được thành tựu có
thể thông với tầng thứ hai, sự dẫn nhiếp ở tầng thứ hai được
thành tựu có thể thông với tầng thứ nhất, tầng thứ nhất được
thành tựu có thể thấy ở giữa thai tạng. Căn cứ vào đó mà
nói, ắt các loại chúng sanh, tánh vốn tin ở sự giải thoát,
tuy là vô lượng vô biên, nhưng lấy pháp môn Mạn – Trà – La nầy
làm việc nghĩa lợi thì tất cả không có gì là chẳng hết sạch.
Bởi vậy, nên nói : “Vì muốn cứu giúp vô lượng chúng
sanh, khiến được an lạc.
3.3 TAM MẬT TƯƠNG ƯNG
Mật là cảnh giới tự chứng của Như Lai, hàng phàm phu không thể suy nghĩ hoặc tưởng tượng để thấy biết được.
Tam mật tức gồm thân mật, khẩu mật và ý mật.
Tam mật được chia thành hai : tam mật của Như Lai tự chứng và tam mật của chúng sanh tu hành.
Tam mật của Như Lai tức là ba nghiệp thân, khẩu, ý của Như
Lai bản lai bình đẳng, trùm khắp pháp giới, còn gọi là pháp
thân bình đẳng. Nếu không có “phương tiện dẫn độ” thì tam mật
của Như Lai sẽ vĩnh viễn là bí mật.
Một chúng sanh tu hành, nhờ “phương tiện dẫn độ” , qua sức “gia trì lực” nhập vào tam mật của Như Lai.
Theo Nghi Quỹ thì “Phương tiện dẫn độ” gồm :
- Thân mật :Tay kết ấn khế (Mudra) và những cử chỉ, tư thế của thân.
- Khẩu mật: miệng tụng chân ngôn (Dharani) hay những lời cầu nguyện khác.
- Ý mật: Ý quán tưởng chủng tử, hoặc quán hình tam muội da, quán nhập bổn tôn tam ma – địa.
Theo kinh Tâm Địa Quán, phẩm Thành Phật thì tam mật tức gồm thân bí mật, ngữ bí mật và tâm bí mật.
Thân bí mật là ở trong đạo tràng, đoan thân chánh niệm, tay kết ấn, đặt giữa tâm nguyệt luân nơi ngực.
Ngữ bí mật tức là chuyên trì niệm chân ngôn.
Tâm bí mật là người tu hành Du Già, quán trong mặt trăng
tròn đầy, thấy hiện ra cái chày Ngũ – Cổ Kim – Cương sắc vàng,
ánh sáng rực rỡ như vàng chảy, phóng ra vô số ánh sáng trắng
lớn. Lấy sự ấy mà quan sát gọi là tâm bí mật.
(Chày Ngũ – Cổ – Kim – Cương còn được gọi là ngũ trí Kim
Cương, kết bằng hào quang vi diệu, có đầy đủ diệu lực của năm
trí, lần lần quán chiếu lâu sẽ hiện tướng thành năm Đức Phật,
1. Pháp giới thể tánh trí, hiện thành Đức Đại Nhật Như Lai,
Đức Tỳ Lô Giá Na, tức Quang Minh Biến chiếu Như Lai .
2. Đại viên cảnh trí thành A Xúc Như Lai
3. Bình đẳng tánh trí thành Bảo Sinh Như Lai
4. Diệu quan sát trí thành Vô Lượng Thọ Như Lai
5. Thành sở tác trí thành bất không thành tựu Như Lai. Năm vị Như Lai hiện ra ở giữa và bốn phương hướng.
Theo Hiển Mật Viên Thông Thành Phật Tâm Yếu thì hành giả :
“Nếu dùng tam mật làm môn tu hành, không cần tu trải qua nhiều
kiếp số, đủ tu các hạnh. Chỉ nơi đời nầy, đầy đủ các Ba La
Mật”.
Như vậy, khi tu hành tam mật thì được tam mật của Như Lai
gia trì. Khi ấy, tam nghiệp của chúng sanh và tam mật của Như
Lai hòa nhập, không hai, không khác. Đây chính là Tam mật
tương ưng. Thân ở trong đàn tràng, miệng tụng trì Chú Đại
Bi, tâm ý quán tưởng bổn tôn : Quán Thế Âm Bồ tát, hay duyên
theo từng chữ của bài chú, tức đó là hành trì tam mật tương
ưng. Nếu hành giả nương theo tam mật này để tu tập thì sẽ
thành tựu được mọi tất địa.
Tóm lại, ấn chú, mạn Đà La và tam mật tương ưng là những
pháp hành theo giáo nghĩa Mật Tông, được thuyết từ chính kim
khẩu của Đức Thế Tôn qua các kinh điển như Kinh Đại Nhật
…nhưng chính vì mật ý mật nghĩa của hành pháp mà không được
phổ biến rộng rãi. Hơn nữa, pháp tu của Mật Tông phải lựa
chọn căn cơ thích hợp, cho nên việc truyền bá không phải nằm
trong quảng đại quần chúng. Tâm ý của người viết mong rằng việc
nêu ra sơ lược về ấn chú, mạn đà la gọi là chút góp
nhặt, tự tìm hiểu cho chính mình, và là một chút duyên sơ ngộ
cho những ai hữu duyên với Mật Tông.
CHƯƠNG 4: LỢI ÍCH CỦA VIỆC TRÌ TỤNG CHÚ ĐẠI BI
4.1 HIỆN TẠI
Sau khi Đức Quán Thế Âm Bồ Tát thuyết thần chú Đại bi xong,
cõi đất mười phương đều rung động sáu cách, các thứ Thiên Hoa
bay xuống, các Đức Phật trong mười phương đều hoan hỷ. Thiên ma
ngoại đạo đều rùng mình sợ hãi. Tất cả hội chúng đều
được chứng quả: Tu – Đà – Hoàn, Tư – Đà – Hàm , A-Na-Hàm, A La
hán, hoặc từ nhất địa, nhị địa cho đến thập địa, có rất nhiều
chúng sanh phát Bồ – đề – tâm.
Nương oai lực của Đức Quán Thế Âm Bồ tát, hành giả trì tụng
chú Đại Bi đúng như pháp, sẽ có Ngài Nhật Quang Bồ Tát và
Nguyệt Quang Bồ Tát cùng với rất nhiều các vị Thần – Tiên, vì
hành giả đến để làm chứng minh cho sự tụng trì càng
thêm hiệu nghiệm. Đồng thời, Đức Quán Thế Âm Bồ Tát sẽ dùng
ngàn tay để nâng đỡ, ngàn mắt để chiếu soi, từ đó về sau, hành
giả trông gặp bất cứ kinh sách nào của thế gian đều có thể hiểu
rõ tất cả, pháp luật của ngoại đạo và kinh điển của
Phật đều thông suốt cả. Tám vạn bốn ngàn thứ bệnh ở thế gian
đều có thể trị khỏi, không một bệnh nào chẳng lành. Lại được vô
lượng tam muội biện tài, cùng tất cả mọi sự mong cầu đều được
thành tựu.
Kinh Quán Âm Đại Bi Tâm Đà La Ni : “ … vì muốn cho chúng
sanh được an vui, được trừ tất cả bệnh, được sống lâu, được
giàu có, được diệt tất cả nghiệp ác tội nặng, được xa lìa
chướng nạn, được tăng trưởng tất cả công đức của pháp lành,
được thành tựu tất cả các thiện căn, được tiêu tan tất cả
sự sợ hãi, được mau đầy đủ tất cả những chỗ mong cầu”. [2, 11]
Như vậy, việc trì tụng thần chú Đại Bi mang đến một kết quả
vô cùng thiết thực trong đời sống hiện tại, điều chắc chắn là
hành giả được thân tâm thanh tịnh an lạc. Hành giả thanh tịnh
thân tâm, sẽ tự nghiệm thấy nhiều lợi ích “bất khả
thuyết”. Trong “Đại Bi Trì Nghiệm”, cảm ứng của việc trì tụng
thần chú Đại Bi ghi rất rõ. Mặt khác, trong thực tế cuộc sống,
bản thân người viết đã hơn một lần được nhận sự cảm ứng : “Mùa
An Cư Kiết Hạ năm 2002, trong thân đau nhức vô cùng,
và bụng cứ quặng đau, đi khám rất nhiều bác sĩ và siêu âm,
nhưng không tìm ra được bệnh. Đêm ngày cứ một niệm nhất tâm
trì chú Đại Bi và cầu xin cho con tìm ra được bệnh để chữa trị.
Cuối cùng tại bệnh viện Hòa Hảo đã tìm ra 2 polym
trong túi mật. Cầm kết quả này, bệnh viện nhân dân Gia Định yêu
cầu phải giải phẫu cấp cứu gấp. Ni sư trụ trì chùa Bát Nhã đã
gởi lên bệnh viện Sài Gòn để nhập viện. Tại đây người viết
một lòng niệm Quan Âm Bồ Tát và Trì chú Đại Bi, mọi thủ
tục giải phẫu đã xong, nhưng không hiểu sao cứ thấy bác sĩ hội
chuẩn là người cứ xanh như chàm, và sau nhiều lần hội chuẩn thì
bác sĩ đình việc giải phẫu và tiêm kháng sinh cùng uống
thuốc để polym khô mũ thì mới giải phẫu. Đến bây giờ thì
người viết không phải giải phẫu và 2 polyme chỉ còn lại 1 và ổn
định.
4.2 TƯƠNG LAI
Người trì tụng thần chú Đại Bi, ngoài những kết quả đạt được
trong hiện tại, ở đời vị lai, chắc chắn được 15 chỗ sanh tốt
và tránh được 15 chỗ chết xấu.
Mười lăm chỗ sanh tốt, đó là :
1. Sanh nơi nào cũng gặp vị vua khôn khéo
2. Thường sanh ở nước hiền lành
3. Thường gặp thời vận tốt
4. Thường gặp bạn hay
5. Thường được thân căn đầy đủ
6. Đạo tâm rất thuần thục
7. Không phạm giới cấm của Phật
8. Bà con thân thuộc, trên thuận dưới hòa
9. Của cải luôn luôn dư dật
10. Thường được kẻ khác cung kính, phò trợ
11. Có những của báu, không bị cướp đoạt
12. Mong cầu điều gì, vẫn được vừa ý
13. Các vị Long – Thiên, Thiện Thần luôn luôn ủng hộ
14. Sanh ở nơi nào cũng được thấy Phật nghe pháp
15. Nghe chánh pháp liền ngộ nghĩa lý sâu xa.
Tránh được mười lăm chỗ chết xấu :
1. Không chết vì đói khát khốn khổ
2. Không chết vì gông cùm đánh đập
3. Không chết vì oan gia thù oán
4. Không chết vì quân trận giết nhau
5. Không chết vì cọp beo thú dữ làm hại
6. Không chết vì rắn độc rít dữ cắn mổ
7. Không chết vì lửa cháy nước sôi
8. Không chết vì uống nhằm thuốc độc
9. Không chết vì loài sâu độc làm hại
10. Không chết vì điên cuồng mê loạn
11. Không chết vì sa rớt nơi bờ lở núi cây
12. Không chết vì kẻ độc ác trù yểm
13. Không chết vì tà thần ác quỉ thừa dịp
14. Không chết vì bệnh dữ buộc mình
15. Không chết vì khi chưa tới số mà tự hại.
Lời nguyện của Đức Bồ Tát Quán Thế Âm, vì lợi ích của vô
lượng chúng sanh mà khẩn phát. Ngài nguyện cho người tụng trì
thần chú Đại Bi không bị sa đọa trong ba đường dữ, được sanh về
cõi nước của các Đức Phật. Nương theo những nguyện
lực này, chúng ta tâm thành miên mật, trì tụng thần chú Đại Bi
thì chắc chắn đời vị lai chúng ta sẽ tránh được 15 giống ác tử
trên và được thọ sanh vào 15 chỗ sanh tốt. Và rốt ráo hơn nữa,
chúng ta không bị sa đọa trong 3 đường dữ, được sanh
về các cõi nước của các Đức Phật.
Lợi ích đạt được thiết thực và rõ ràng như vậy, mong rằng
hằng ngày đều có nhiều hành giả phát tâm trì tụng Đại Bi thần
chú để tự thân – gia đình – xã hội đều được hưởng phần lợi lạc.
KẾT LUẬN
Hơn 25 thế kỷ trước đây, Đức Bổn Sư Thế Tôn đã giáng trần
thị hiện Đản Sanh với mục đích “khai thị ngộ nhập Phật tri
kiến”, với hơn tám vạn bốn ngàn pháp môn phương tiện, Ngài đã
dẫn dắt chúng sanh hội nhập tri kiến Phật. Hoặc là niệm
một danh hiệu Phật, hoặc tụng một tôn Kinh, trì một câu
thần chú, nhường một nửa tòa ngồi, chắp tay búp sen, cho đến
Đồng Tử đang chơi, thấy Thế Tôn đi ngang bèn cầm một nắm cát
trên tay và thành tâm cúng dường Ngài, đều được “trọn thành
Phật đạo”.
Một hành giả hành trì chân chánh pháp môn mình
đang tu, không có nghĩa là pháp môn của mình tu
là hay nhất và những pháp môn khác thì đứng nhì,
mà:
Cửa giải thoát là không – vô tướng – tác
Là vượt trên cả thiện ác bình thường
Là trở về ngay cuộc sống miên trường
Nhập vũ trụ thật bao la bát ngát
Mật Nghiêm
Cho nên, không – vô tướng – vô tác là cửa để hành giả đi vào
giải thoát giác ngộ. Hành giả hành trì Mật Tông cũng vậy, đem
sự về lý, chuyển tất cả những sự tướng khác biệt của thế gian
và xuất thế gian trở về với “Lý thể bình đẳng” duy
nhất của mọi sự vật; Đem nhân về quả, chuyển nghiệp báo sanh tử
luân hồi của chúng sanh đến thành quả vị Phật; Đem Phật về với
chúng sanh, vận dụng tâm từ bi rộng lớn, dùng phương tiện
nhiệm mầu để làm lợi lạc, giải thoát cho tất cả chúng
sanh trong toàn pháp giới. Hành giả tu Mật Tông không cho pháp
môn mình tu là nhất, không dám chê một pháp môn nào, vì tất cả
các pháp đều bình đẳng, đều là phương tiện để đi đến giải
thoát.
Đối với một hành giả tu Mật Tông thì sự thành tựu lớn hay
nhỏ là do tâm của mình. Còn nếu đem so sánh giữa hai hành giả
thì tuỳ theo căn cơ, phước đức và sự mở tâm của mỗi người mà có
sự khác biệt. Tuy nhiên, nếu gắng tu để đạt được sự
“tương ứng” thì cái thành tựu ban đầu nhỏ, sau cũng sẽ lớn lên
vô hạn. Do đó, hành giả đừng sợ là không thành tựu và cũng đừng
buồn khi thành tựu nhỏ.
Người tu Mật Tông nói đến thành tựu để cho chúng sinh chứ
không cầu mong kết quả cho mình. Còn thành tựu lâu hay mau, lớn
hay nhỏ đều do ở mình, chỉ có hai điều chắc chắn có thể nói
được: “Một là tu Mật Tông thì tiến từng ngày từng giờ.
Hai là đã tu thì sẽ có thành tựu”.
Hơn nữa, tất cả các pháp vốn không sinh nên không diệt. Do
bất sinh diệt nên được tướng vô sở đắc. Do tướng Vô sở đắc nên
vô sinh diệt. Do vô sinh diệt nên vô cấu. Do vô cấu nên được vô
Đẳng Giác. Do vô Đẳng Giác nên được vô Thủ xã. Do Vô
thủ xã nên được Bình Đẳng Vô Ngôn Thuyết. Do Bình Đẳng Vô Ngôn
Thuyết nên được vô nhơn vô quả, Bát – Nhã tương ưng, vô sở đắc
lấy làm phương tiện nhập vào thắng nghĩa.
Thành tựu của người tu giải thoát không phải ở chỗ “biến hoá thần thông, hô phong hoán võ” mà là tự thấy được:
* Tâm phàm của mình ngày một mất
* Nghiệp xấu ngày một bỏ
* Từ bi ngày một tăng
* Tinh thần ngày một an ổn
* Trí thấy biết ngày một sáng
* Giải thoát ngày một gần
Thực tế cho chúng ta thấy, Mật Tông cũng như các Tông phái
khác, bên cạnh những lợi ích đạt được, thì nó cũng có rất nhiều
những bất lợi khác, cũng tựa con dao hai lưỡi, nếu biết sử
dụng thì nó sẽ cho ta những hoa tươi trái ngọt, ngược lại
thì hậu quả cũng rất khó lường.
Hành giả hành trì Chú Đại Bi cũng vậy, với tâm hướng thiện,
vì mục đích lợi lạc cho tha nhân thì tất nhiên công năng của
Thần Chú Đại Bi sẽ phát huy tác dụng tối đa. Còn những
kẻ tâm không chí thành và cầu những việc bất thiện thì việc
trì tụng thần Chú Đại Bi sẽ trở nên phản tác dụng, dễ đưa đến
kết quả như Đạo Gia thường nói: “Tẩu hoả nhập ma”, vì kết
quả rốt ráo của Chú Đại Bi không có công năng thưởng thiện
phạt ác mà hành giả vì danh tướng lợi lộc của thế gian. Cố công
hành trì Chú Đại Bi cho đủ túc số để đưa đến thành công, thì
tâm niệm này được ví như đãi cát mà mong nấu thành
cơm.
Một số người cho rằng, Trì Chú Đại Bi có nhiều linh nghiệm,
bèn trì chú vào nước để cho người bệnh uống, hoặc trì chú vào
một mảnh vải, mang trong người thì không bị ma quỷ khuấy
phá..v..v..... Thực ra, hành giả muốn đạt được đến những
thành tựu này phải trải qua thời gian tu tập như thế nào, hành
trì Chú Đại Bi ra sao, chúng ta không nên quá mê tín. Phật dạy
rằng: “Tin Ta mà không hiểu Ta, tức là phỉ báng Ta”,
nếu chúng ta cứ tin vào lời Phật dạy: “Chú vào chỉ ngũ Sắc...”
mà không hiểu được phương tiện khế lý khế cơ của Phật, cứ hành
trì suông như vậy thì bị các tướng ngã, nhơn, chúng sanh, thọ
giả lôi cuốn. Cũng một việc trì chú trị bệnh nhưng với
tâm niệm vị ngã, sẽ dễ lạc vào tà kiến, nhưng với tâm niệm vị
tha, chúng ta sẽ đạt được lợi lạc vô lượng vô biên, cho nên ở
điểm này, chúng ta cần phải thận trọng.
Mục đích của Thần Chú Đại Bi giúp cho mọi người tiêu trừ
nghiệp chuớng, thanh tịnh thân tâm, nên hành giả hành trì Chú
Đại Bi, không phân biệt giới tính, tuổi tác, giai cấp, tất cả
mọi người đều có khả năng hành trì Chú Đại Bi để đạt được
những lợi ích thiết thực. Nếu là một bác sĩ thì công năng
của Chú Đại Bi sẽ giúp cho Bác sĩ mát tay, điều trị cho bệnh
nhân mau lành bệnh. Nếu là một công nhân thì nhờ tâm thanh tịnh
an lạc thì năng suất đạt được sẽ cao hơn. Nếu là học
sinh – sinh viên thì chúng ta sẽ tiếp thu kiến thức nhanh chóng
mau lẹ... Cho nên tất cả mọi nguời đều có khả năng hành trì
Chú Đại Bi.
Để việc trì chú không trở thành hành động bùa phép, chúng ta
cần phải biết rõ mục đích hành động của mình, và trì chú như
thế nào?
Có người cho rằng: hành trì chân ngôn thì phải giữ nguyên
bản chữ Phạn và trì tụng bằng Phạn ngữ, lại có người cho rằng:
từ lâu nay, chúng ta thường trì tụng bản chữ Hán, hoặc bản
phiên âm Hán – Việt thì kết quả hiệu nghiệm hơn.......
Lại có người cho rằng: nếu chúng ta hiểu rõ bài chú thì chúng
ta sẽ an tâm hơn khi trì tụng và việc giải nghĩa bài Chú Đại Bi
là cần thiết..v..v...Lại có người cho rằng: nếu chúng
ta hiểu rõ bài chú thì chúng ta sẽ an tâm hơn khi trì tụng và
việc giải nghĩa bài Chú Đại Bi là cần thiết..v..v... Rồi còn ấn
chú, linh phù, Mạn Đà La..., có cần thiết phải thực hành hay
không? Có cần thiết để truyền bá rộng rãi hay không?
Đây là một bài toán nan giải, nhưng đã có đáp số, chỉ cần chúng
ta luôn giữ vững chánh niệm của mình, đừng để lạc vào tà niệm,
thì:
Cửa Mật Giáo ngày hôm nay đã mở
Không khoa trương, không giới thiệu ồn ào
Ai có duyên thì xin cứ bước vào
Vườn hoa lạ chờ đón chào lữ khách
Mật Nghiêm
Ở Tây Tạng, khi nói về Mật Tông, người ta thường nhắc đến sự
hiện diện của phái Hồng Mạo và phái Hoàng Mạo. Phái Hồng Mạo
hay phái Mũ Đỏ cho rằng: hành giả muốn tu chân ngôn thì trực
tiếp đi vào thực hành chân ngôn, không cần phải đi tìm
hiểu giáo lý. Còn phái Hoàng Mạo hay phái Mũ Vàng thì trước
khi đi vào tu tập chân ngôn, cần phải tìm hiểu học hỏi, kinh
qua giáo lý, giới luật nghiêm túc, mới đủ phước duyên để trợ
lực cho việc tu chân ngôn.
Tu Chân Ngôn hay thực hành Mật Tông là một việc tưởng dễ,
đơn giản. Nhưng thực ra không phải là đơn giản, nó đòi hỏi hành
giả phải có đủ phước nghiệp và có túc duyên, để làm trợ lực
cho việc hành trì. Cho nên, việc hành trì Chú Đại Bi là
cần thiết, quan trọng, nhưng hành giả phải nên cẩn mật trong
từng oai nghi, cử chỉ và trong từng tâm niệm, phải luôn nhất
tâm, chánh niệm.
Con chắp tay Cầu Phật
Phật Tỳ Lô Giá Na
Xin cho con gặp Mâảt
Để cứu độ Ta Bà
***
Con chắp tay cầu Phật
Đức Bổn Sư Thích Ca
Xin cho con hiểu Mật
Để chuyển hoá Ta Bà
Mật Nghiêm
Thành tâm, con xin gởi nơi đây lòng chí thành cung kỉnh đãnh
lễ: Tổ pháp Mật Tông Tỳ Lô Giá Na Như Lai và các vị Tổ thị
hiện như: Kim Cang Tát Đõa, Long Thọ Bồ Tát và Kim Cang Trí…
Xin cho mầm Bồ Đề của con và chúng sanh mãi mãi được vun
bồi, ngày càng tăng trưởng.
Nguyện cầu Hồng Aân Tam Bảo, Phật Lực trong mười phương thuỳ
từ gia hộ cho tất cả chúng sanh trong pháp giới nhờ nương vào
giáo lý của Phật Đà sẽ đượm nhiều lợi lạc, an vui, sớm lên bờ
giác.
Nam Mô Công Đức Lâm Bồ Tát
Nam Mô Hoan Hỷ Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Thánh Ấn – Đại Bi Chú Giảng Giải – Lưu hành nội bộ - 1995
2. Liên Du – Kinh Quán Âm Đại Bi Tâm Đà La Ni – Thành hội phật giáo TPHCM – 1996
3. Đại chính Tân Tu Đại Tạng Kinh – quyển 20
4. Thiền Đức – Kinh Đại Bi Tâm Đà La Ni Xuất Tượng – 2003 – Lưu hành nội bộ
5. Thích Viên Đức – Bộ Mật Tông – thành hội Phật giáo TPHCM – 1995
6. Thích Viên Đức – Thích Quảng Trí – Cư sĩ Huỳnh Thanh –
Như Pháp Quân – Mật Tạng Phật Giáo Việt Nam tập 1 – Viện triết
lý Việt Nam và triết học thế giới – 1997
7. Thích Viên Đức – Thích Thiền Tâm – Thích Quảng Trí –
Thích Thông Đức – cư sĩ Huỳnh Thanh – Như Pháp Quân – Mật Tạng
Phật Giáo Việt Nam tập 2 – Viện Triết Lý Việt Nam và Triết học
Thế Giới - 1999
8. Giác Hải – Kinh Thiên Thủ Thiên Nhẫn Đại Bi Sám Pháp –
Hình Đồ Thánh Thủ – 1974 – Nhà in Hạnh Phúc – 69 Lê Văn Thạnh –
Gò Vấp
9. Tuyên Hoá – Đại Bi Chú Cú Giải – 1969 – Lưu Hành nội bộ
10. Thích Chân Lý – Kinh Ngũ Bách Danh – Thành hội PGTPHCM – 1997
11. An Phong – Mật thừa Tây Tạng – NXB Thiện Tri Thức – 1999
12. Nguyễn Pram – Kinh Đại Nhật – phật học viện Quốc Tế – 1997
13. Như Pháp Quân – Kinh Đại Nhật Thích Nghĩa – 1992 – Lưu hành nội bộ
14. Thích Thiền Tâm – Kinh Đại Bi Tâm Đà Ra Ni – tu viện Thánh Cư Tịnh Độ – 1987
15. Thích Viên Thành – Nghi Thức Tu Trì Lục Độ Ta Ra – Thành hội phật giáo TPHCM – 1996
Luận Văn Tốt Nghiệp
Thích Nữ Huệ Trung
Nguồn: dentutraitim.com