Chùa Bửu Minh

Duy ma xứ Huế


Châu Thành

Với lòng trân trọng sâu sắc, thành kính  gởi đến quý Thầy, Cô cư sĩ ở Huế.

Tám năm sống ở Huế giúp tôi gần gũi với một số cư sĩ Phật tử đặc biệt. Nói đặc biệt không phải vì họ khác người, lập dị, điên khùng. Họ, đặc biệt chẳng phải vì họ là những đại gia hào phú, càng không phải những người quyền cao thế trọng. Họ đặc biệt vì họ là hiện thân của cư sĩ Duy-ma-cật trong bản kinh Đại thừa cùng tên. Tôi nói họ là hiện thân vì đời sống họ ẩn hiện nhiều nét tương đồng với hình ảnh cư sĩ Duy-ma. Tôi sẽ chỉ ra cái đặc biệt của họ để chúng ta cùng: nhìn người để ngắm lại ta.

 

Họ, trước tiên, là những người trí thức, những giáo viên mẫu mực. Họ không những làu thông khối tri thức xã hội mà còn uyên thâm kho tàng giáo lý đạo Phật. Có người từng làm Giáo sư Đại học Huế, từng du học Mỹ, cũng có người đang đứng lớp, có người cần mẫn bên những quyển sách trong thư viện, nhưng nét chung của họ là sống và làm việc theo tư tưởng Phật giáo. Vì vậy, họ là những Phật tử thuần thành, trung kiên, tiêu biểu cho lực lượng Phật tử trí thức Huế. Thân xác họ có vẻ khô cằn, ốm yếu già nua nhưng tâm hồn họ tươi mát, mạnh mẽ. Họ dũng cảm từ bỏ danh lợi hảo huyền thế gian để đầu tư và sống với gia đình xuất thế.

 

Từ nhà đến trường gần chục cây số nhưng họ đi xe đạp. Giáo viên, Giáo sư thời bây giờ đâu ai nghèo đến nổi không sắm nổi Honda? Họ đi xe đạp hoặc xe ôm không phải họ nghèo, họ keo, họ lập dị. Họ thích tự đi bằng đôi chân của mình vì họ giản dị, không đua đòi xa xỉ. Họ xem thường vật chất kỹ nghệ bởi họ quen với niềm vui tinh thần bên trong. Họ rèn luyện sức khỏe bằng cách sống chậm lại để thưởng thức an lạc hiện tại. Giản dị là tinh hoa của cái đẹp. Sức khỏe là vàng. An trú hiện tại là Niết-bàn trần gian. Ai dám bảo họ tự làm khổ, tự hành xác mình?

 

Họ thích khoai sắn luộc, đậu bắp, đậu rồng, chao kho, tương dưa, cải muối đâu phải họ nông dân? Dưới con mắt họ, ăn chay mới sang. Càng giản đơn vật chất càng cao và sáng tinh thần. Giết loài vật để thỏa mãn ba tấc lưỡi là “bần”. Đến nhà họ như bạn dạo vườn hoa. Hoa của họ không bị chăm sóc tăn măn tỉ mỉ đâu, vì họ vốn giản dị. Họ sợ cây cối đau, rỉ máu nên hạn chế cắt tỉa, uốn nắn. Họ chỉ bón phân cho lá xanh bông thắm, rất tự nhiên hệt như sự tự nhiên tâm hồn họ. Đào mận chín đỏ, không hái, tự rụng; hồng mọng trĩu cây, họ để nguyên, cấm trèo. Cỏ dại không sạc, chả bơm thuốc diệt, chỉ nhổ bằng tay, từng cọng thôi. Chậu kiểng, họ không xịt bằng vòi mà múc từng gáo làm từ gáo dừa khô, tưới rất chậm rãi, khoan thai như chính bước chân của họ. Họ yêu thiên nhiên, trân trọng từng bông hoa ngọn lá như yêu bản thân họ. Đời sống họ còn phảng phất hương thơm tư tưởng Lão Trang.

 

Thân họ nhỏ gọn nhưng tâm họ cao rộng. Rộng, vì họ sống không vị kỉ cho riêng bản thân, gia đình. Họ biết sắp xếp ổn thỏa mọi việc gia đình trước khi tham gia các công tác Phật sự. Một vài người trong số họ không lập gia đình vì Phật giáo là nhà, chúng sanh là con, hoằng pháp là gia vụ, lợi sanh là sự nghiệp. Cao, vì họ làm việc bằng cả tấm lòng chứ không phải đồng bạc. Cao, vì họ sống và làm việc trong sự hướng dẫn của chánh pháp. Họ đến với Phật giáo bằng lý trí chứ không phải bằng tình cảm, niềm tin hời hợt sáng nắng chiều mưa. Họ mộ đạo bằng cách tự mình thực hành giáo lý. Từ đó họ có cái nhìn đúng đắn về nhân sanh thế thái. Họ cao vì họ vô tâm, vô sự, vô danh. Trước đám đông, họ bao giờ cũng khiêm tốn, im lặng và thiện chí lắng nghe. Họ thích đi sau, ngồi cuối. Cách hộ trì chánh pháp của họ là chăm lo giáo dục chứ không phải từ thiện. Giáo dục con người quan trọng hơn bất cứ điều gì khác. Ý thức điều đó, họ cực kỳ nhiệt tâm trong việc tham gia giảng dạy cho Tăng Ni sinh. Đôi khi chúng tôi thấy mình có lỗi vì một vài lần tỏ ra chưa trân trọng tấm lòng và công sức của họ.

 

Người biết nhiều thường ít nói nhưng kẻ biết ít lại nói nhiều. Họ thường ít nói. Dường như họ nhận thức rất rõ giới hạn của ngôn ngữ nên họ hạn chế tối đa. Họ giao tiếp bằng ánh mắt, nụ cười, bàn tay hơn cái miệng. Quân tử nói bằng việc làm, tiểu nhân nói bằng ngọn lưỡi. Hãy nhìn họ đi bạn mới thấy họ trầm tĩnh đến mức độ nào. Bạn có tin họ dắt xe đạp từ trong nhà ra khỏi cửa hết mười lăm phút không? Lớp trẻ thường có thái độ chán ngán khi đi sau họ. Họ mặc. Họ chỉ biết họ đang làm gì và cố gắng làm cho hoàn hảo nhất, chậm rãi nhất, khoan thai nhất. Dường như thế giới này chỉ có một mình họ. Họ suy tư những điều mà không phải ai cũng có thể thấu hiểu được. Họ cảm thấy lo lắng khi Phật giáo Huế bùng nổ việc xây dựng chùa to Phật lớn. Phát triển ồ ạt hình thức bề ngoài là dấu hiệu suy tàn, trống rỗng nội dung bên trong. Họ thương xót thấy đạo đức một số Tăng Ni học đường xuống dốc. Họ than thở và đau buồn khi chứng kiến một số tu sĩ không có tài năng vẫn chạy đua bằng cấp, học vị. Phật giáo không bao giờ dừng lại ở kiến thức nên tu sĩ chỉ học thôi vẫn chưa đủ. Họ tâm sự, thời này đâu cần du học nước ngoài mới giỏi, ở Việt Nam mà chuyên tâm học một môn cũng giỏi. Họ là minh chứng. Họ cười khi thấy Phật giáo Việt Nam có vị thế trên diễn đàn Phật giáo quốc tế nhưng họ cũng ôm ấp nhiều trăn trở về những tiêu cực của tình hình giáo dục Phật giáo hiện nay. Con cháu họ đôi khi không hiểu nổi cha mình, thậm chí còn trách ngầm. Chúng trách họ vì tầm nhìn của chúng hẹp và cạn. Chúng chỉ thấy một điều trước mắt mà không biết những cái trên đầu, sau lưng và dưới gót. Đôi lúc họ buồn vì ít ai hiểu họ. Cây cao thường đứng một mình. Họ cô liêu độc bộ nhưng tuyệt không cô đơn.

 

Chúng tôi, Tăng Ni học trò của họ, thường trầm trồ thán phục đạo phong cốt cách của họ. Mỗi khi đứng lớp, họ không chỉ trao truyền kiến thức; mà còn trút cả kinh nghiệm tu học của chính bản thân họ. Họ dạy chúng tôi không chỉ bằng nét chữ, câu nói mà bằng cả tâm hồn. Thân giáo, khẩu giáo của họ đều đáng cho chúng tôi bắt chước. Tiếp xúc với họ rồi mới thấy hổ thẹn. Chúng tôi tự biết kiến thức thế gian không bằng họ, trình độ Phật pháp chưa chắc thâm sâu hơn họ. Hổ thẹn để tự sách tấn bản thân và trân quý và thân cận những vị đại thiện tri thức chứ không tự ty. Vì niềm tôn trọng sâu xa, những khi đi trên đường tôi không dám qua mặt họ. Giảm ga, đạp thắng, tôi thâm nhập vào thế giới tâm linh chậm rãi, bình yên của họ. Chúng tôi bao giờ cũng tôn trọng và gần gũi song, vì trẻ con, đôi lúc hay chọc họ. Họ không tức giận mà còn tỏ ra cực kỳ nhẫn nhịn. Bất cứ Tăng Ni sinh ngoan nào cũng nhớ nhiều kỉ niệm đẹp khi có dịp tiếp xúc với họ.

 

Họ là ai? Đừng bảo tôi chỉ đích danh. Tôi không thích mà chắc họ cũng chẳng ưa. Tôi ghi lại đôi dòng về họ để chúng ta trân trọng, thân gần, học hỏi chứ không phải để sùng bái cá nhân. Thân cận vị cư sĩ như họ để tu sĩ chúng ta nhìn lại đạo phong, đạo tâm, phong cách, tính cách, ngôn ngữ của mình. Chúng ta so sánh không phải để hơn thua, cao thấp mà để thăng tiến trên bước đường tu học. Việc tu hành không phân biệt tu sĩ hay cư sĩ. Xuất gia chưa chắc đã giải thoát. Tại gia chưa hẳn ràng buộc. Họ tôn kính chúng ta vì chiếc áo và cái đầu. Chúng ta, nhờ thiện nghiệp sâu dày, thoát khỏi sợi dây ân ái gia đình quấn thắt nên có nhiều điều kiện thuận lợi tu hành hơn họ. Trong cảnh con là nợ vợ là oan gia, họ thật dũng mãnh mới có thể sống theo tinh thần thiểu dục tri túc. Chính công hạnh tu hành của họ làm họ cao, sáng và sang hơn người khác. Sự thực hành giáo lý Phật dạy đã chắp cánh cho họ bay vào thế giới thanh bình, thong dong tự tại ngay khi họ cư trú tại cõi trần giả dối, chụp giựt, ràng buộc này. Tôi muốn ghi lại một vài điều ý nghĩa nhỏ bé trong cuộc sống thênh thang của họ như một lời niệm ân chân thành nhất gởi đến họ. Vì mãi chăm lo học hành, đôi khi chúng ta quên cảm ơn quà tặng cuộc sống mà người khác âm thầm trao tặng cho ta hằng ngày. Nay là lúc chúng ta thực hiện công việc ý nghĩa ấy.

 

Huế vẫn còn đó những người con rất Huế, dù trẻ già, nam nữ, đạo đời. Phật giáo Huế thời nào cũng có những cư sĩ hộ đạo trung thành và sáng suốt sát cánh bên các bậc Cao tăng thạc đức. Họ hiện hữu ngay bên cạnh những kẻ phản diện nhưng không hề tranh cãi. Họ không cố làm cho mình nổi bật trước đám đông nhưng luôn có địa vị cao và sang trong tâm trí chúng tôi. Ngài Duy-ma xưa hẳn mỉm cười hoan hỷ khi thấy hình ảnh sống của mình hiện diện khắp nơi. Mỗi khi nghĩ về Huế, tôi không thể không nhớ họ, thương họ và trân trọng những giây phút bên cạnh họ. Lời cuối con muốn thưa với Thầy: quý Thầy không cô độc. Đâu đó, bên cạnh, sau lưng, vẫn âm thầm hiện hữu một vài tu sĩ hiểu tâm sự của quý Thầy, đồng cảm với những ưu tư của quý Thầy. Họ đã ý thức được phải làm gì duy trì Phật giáo như quý Thầy. Tre già đừng buồn vì măng non không mọc. Lũy tre xanh Phật giáo luôn ẩn hiện những chồi măng mập, thẳng và cứng. Cầu nguyện các vị tu sĩ ấy cố gắng hoàn thiện đức độ và trí tuệ để sống như và hơn họ.

 

Châu Thành



©2010 -2024  Chùa Bửu Minh | Homepage