Những ai đã
từng được đặt chân tới nơi thánh địa này mới cảm nhận được đầy đủ và
trọn vẹn ba chữ: “Thanh Lương địa” (vùng đất trong lành, mát mẻ).
Gác
lại bao công việc còn ngổn ngang, bao tâm tư phải lo lắng, đoàn chúng
tôi gồm 21 người do Thượng tọa Thích Minh Hiền, Phó Ban văn hóa TWGHPG
Việt Nam, Trụ trì Chùa Hương làm trưởng đoàn khởi hành từ Thủ đô Hà Nội
vào một ngày cuối thu đến Ngũ Đài Sơn - nơi được UNESCO xếp hạng Di sản
văn hóa Thế giới.
Với nhiều thành viên trong đoàn thì đây là lần thứ
2 chúng tôi trở lại đất nước Trung Hoa rộng lớn. Không phải chỉ để
thưởng ngoạn phong cảnh hữu tình, chiêm ngưỡng những công trình kiến
trúc cổ kính, mà tất cả chúng tôi đến đây đều với một khát khao được
thỉnh cầu Phật Pháp, chuyển hóa trong tâm hồn mình năng lượng thương yêu
của Đức Phật, của Chư vị Bồ Tát mong gieo trồng công đức, viên thành
Phật đạo.
Do có sự chuẩn bị chu đáo cho chuyến đi từ rất sớm lại được sự quan
tâm của Thượng tọa và hai vị Đại Đức nên đoàn chúng tôi khởi hành vô
cùng hoan hỉ. Đáp máy bay từ thành phố Nam Ninh, sau gần 4 tiếng đồng
hồ, chúng tôi đã có mặt tại Thái Nguyên - Thủ phủ tỉnh Sơn Tây, từ đó đi
ô tô lên Ngũ Đài Sơn.
Phải ghi nhận giao thông ở Trung Quốc rất
thuận tiện, đường cao tốc đẹp và rộng rãi, thỉnh thoảng lại có các trạm
cho du khách nghỉ chân. Có lẽ ấn tượng nhất của chặng đường từ Thái
Nguyên lên Ngũ Đài Sơn là đường hầm dài 6.000 m xuyên qua núi Phong
Hoàng, gọi là hầm Diêm Sơn.
Ở vùng đất này, khí hậu khắc nghiệt nên hai bên đường chủ yếu là đồi
trọc không có dân cư sinh sống. Chỉ đến khi thị trấn Đài Hoài hiện ra
mới cảm nhận được màu xanh của núi đồi với bạt ngàn thông xanh và những
cây phong lá đỏ. Một phong cảnh tuyệt đẹp, núi liền núi gối đầu lên mây
và tuyết trắng. Chúng tôi đến Đài Hoài khi trời đã về chiều, cảm nhận rõ
cái lạnh của phương Bắc. Nhiệt độ lúc này đã xuống khoảng dưới 10 độ,
nhưng tất cả các thành viên trong đoàn đều hoan hỉ.
Hoan hỉ bởi đã vượt qua chặng đường dài bình an. Hoan hỉ bởi đã được
đặt chân đến Thánh địa của Bồ Tát Văn Thù. Với Phật tử Diệu Hỷ - người
già nhất trong đoàn chúng tôi (năm nay cụ đã gần 80 tuổi) thì sự hoan hỉ
ấy còn được dồn nén từ những khát khao mà cả đời cụ đã tu tập. Vừa được
mọi người dìu xuống xe, cụ đã chắp tay hướng về thánh địa liên tục niệm
Nam mô A di đà Phật.
Gió hun hút thổi, giữa bốn bề là núi, nhìn cụ già gần 80 tuổi hào
hứng bước đi, vững chãi leo từng bậc, tôi thấy được sức mạnh phi thường
của niềm tin nơi Phật Pháp. Chỉ có niềm tin, lòng thành kính hướng về
Tam Bảo mới có thể xua đi mọi rào cản về tuổi tác, sự cách biệt về địa
lý và vượt qua được bao vất vả khó khăn. Tôi bỗng nhớ hai câu thơ Thượng
tọa Minh Hiền đã đọc trên đường đi:
“Núi không cao thì cảnh chẳng kỳ
Đường không dài thì lòng người khôn tỏ”
Đứng dưới
chân núi ngước nhìn toàn bộ phong cảnh Ngũ Đài Sơn sẽ cảm nhận được vẻ
đẹp hùng vỹ và linh thiêng huyền bí. Khác với Phổ Đà Sơn diễm lệ như
ngọc bích, quanh năm sóng vỗ rì rào, Ngũ Đài Sơn như những tòa cổ sái.
Một bên xanh biếc quanh năm, một bên tuyết trắng bốn mùa. Tọa lạc ở
huyện Ngũ Đài, tỉnh Sơn Tây, Ngũ Đài Sơn gồm năm ngọn núi có đỉnh cao từ
2.500 đến hơn 3.000 m so với mặt nước biển
Khí hậu trung bình năm khoảng 2 đến 3 độ C. Bốn đài Đông, Tây, Trung,
Bắc xếp thành một đường vòng cung lần lượt có tên là Vọng Hải phong,
Quản Nguyệt phong, Cẩm Tú phong và Hiệp Đầu phong.
Chính giữa là ngọn Thúy Nham phong còn được gọi là Thanh Lương sơn
(nghĩa là núi trong lành và mát lạnh). Các ngôi chùa Phật giáo bắt đầu
được xây dựng trên dãy núi này từ khoảng thế kỷ thứ nhất theo Công lịch.
Tổng cộng hơn 60 ngôi chùa, 150 tháp, 146.000 tượng cùng nhiều bức
bích họa và bản khắc. Thánh địa Ngũ Đài Sơn là nơi chứng kiến sự phát
triển của đạo Phật ở Trung Quốc suốt gần hai nghìn năm. Trải qua các
cuộc thăng trầm của Phật giáo và lịch sử Trung Hoa nên nhiều chùa, viện
cũng không còn được nguyên vẹn. Tuy vậy, các giá trị lịch sử, văn hóa ở
khu vực này vẫn vô cùng to lớn.
Theo đánh giá của UNESCO, các
công trình này “còn tạo ảnh hưởng tới việc xây dựng những cung điện ở
Trung Quốc trong hơn một thiên niên kỷ”. Ngũ Đài Sơn là nơi duy nhất có
sự kết hợp các dòng Phật giáo của người Hán bản địa với các dòng Phật
giáo từ Tây Tạng và Nội Mông Cổ.
Hệ thống chùa chiền nhiều nhưng tựu chung lại ở đây có hai dòng Phật
giáo lớn là Phật giáo Đại thừa và Phật giáo Mật tông. Tương truyền nơi
đây Bồ Tát Văn Thù thường hay thị hiện để độ thoát chúng sinh nên trong
chùa Phật của Ngũ Đài Sơn phổ biến là thờ tượng ngài Văn Thù Bồ Tát -
Đức Phật của đại trí, của tuệ giác vô biên.
Lâu đời nhất trong số chùa Phật ở Ngũ Đài Sơn là chùa Đại Hiển
Thông, xây dựng đời Minh Đế nhà Đông Hán (năm 58 - 73 Tây lịch). Trong
chùa Hiển Thông có ngôi điện Vô Lương cao đến bốn trượng, dài hơn mười
trượng, toàn bộ dùng gạch đá xây dựng nên, không một trụ chống mái nên
lại có tên là Vô Lương điện (ngôi điện không rường)
Ngôi điện này thờ Bồ Tát Văn Thù hay còn gọi là Thiên bát, Thiên tý,
Thiên Thích Ca bởi Ngài có 1.000 tay, trên mỗi bàn tay co lại như hàng
nghìn cái bát, trên đó an vị 1.000 vị Thích Ca. Đây là kiệt tác trong
lịch sử kiến trúc của Trung Quốc, đã có hơn bốn trăm năm lịch sử. Phía
bắc điện là “Đồng điện” được xây dựng năm 1606 sau Công nguyên do một vị
Hoàng đế hiệu Vạn Lịch đời nhà Minh khởi công xây dựng. Hòa thượng Diệu
Phong – Một cao tăng ở Giới Châu đã thiết kế công trình này, sau 4 năm
thì hoàn thành.
Toàn bộ dùng bằng đồng mà đúc nên, phỏng theo kiến trúc bằng gỗ, bên
trong điện một vạn tượng Phật đồng, điêu khắc sinh động, là tác phẩm
tinh vi của nghệ thuật Phật giáo thời cổ đại. Xung quanh điện Đồng là 5
bảo tháp đồng biểu trưng của Ngũ Đài Sơn (Đông, Tây, Nam, Bắc và Trung
Đài).
Từ chùa Hiển Thông lên núi, qua một trăm lẻ tám bậc thềm
đá là lên đến đỉnh Bồ Tát. Kiến trúc của Bồ Tát đỉnh đều phỏng theo kiểu
cung điện, nóc điện lợp ngói lưu ly, vàng ngọc chói lọi, giống như
hoàng cung, tương truyền là chỗ xuất gia của Hoàng đế Thuận Trị.
Bên
dưới chùa Hiển Thông là ngôi Bạch Tháp thờ Xá lợi Phật cao 51 m, đỉnh
tháp có “đồng bàn” (một hình thức kiến trúc hình mâm tròn bằng đồng),
xung quanh có trang trí những chuông lắc nhỏ bằng đồng. Bạch Tháp là một
trong những tác phẩm mang đậm phong cách kiến trúc Tạng truyền.
Sau
khi chiêm bái Trấn Hải Tự, Nam Sơn Tự, Thọ Ninh Tự …, cả đoàn chúng tôi
lên chiêm bái Hiển Thông tự khi mặt trời đã lên cao. Ánh nắng vàng óng
vẫn không xua tan được cái buốt giá của vùng phương Bắc. Mặt trời đã lên
bằng con sào vậy mà mặt trăng vẫn chưa lặn.
Thượng tọa Thích Minh Hiền thốt lên “tuyệt quá”. Thầy bảo đây là nơi
“Nhật nguyệt giao hòa”, “Nơi từ bi và trí tuệ hợp nhất”. Câu nói sâu xa
hàm ý muốn dạy chúng tôi về mối quan hệ giữa lòng từ bi và trí tuệ. Phải
rồi, từ bi mà không có trí tuệ thì dễ vướng vào hệ lụy ràng buộc, có
khi lại thiêu cả rừng công đức. Trí tuệ mà không có từ bi thì “tình dữ
vô tình”, tự cao tự đại.
Trong vòng 6 năm, chúng tôi đã được
chiêm bái đủ 4 thánh tích của Phật giáo Trung Quốc, đó là Phổ Đà Sơn,
Nga My Sơn, Cửu Hoa Sơn và Ngũ Đài Sơn. Qua mỗi chuyến đi, chúng tôi đều
đã cảm nhận được năng lượng thương yêu của Đức Phật; từ lòng từ bi của
Bồ Tát Quan Âm đến Kham nhẫn của Bồ Tát Địa Tạng, Hạnh nguyện của Bồ Tát
Phổ Hiền và hôm nay là Trí tuệ của Bồ Tát Văn Thù.
Có lẽ Thầy muốn chúng tôi hiểu rằng sự giác ngộ chính là sự phát
triển tột đỉnh của trí tuệ, là sự hiểu biết toàn diện và khi đã giác ngộ
thì sẽ được giải thoát.
Miên man trong dòng suy nghĩ về từ bi và
trí tuệ, chúng tôi đã chiêm bái được nhiều danh thắng trong quần thể
Ngũ Đài Sơn. Đứng trên cao phóng tầm mắt xuống núi mới cảm nhận rõ phong
cảnh tuyệt vời. Trời cao trong xanh, ánh nắng vàng lấp lánh. Từng tia
nắng xuyên qua những màn sương mờ mờ ảo ảo, xa xa thấp thoáng những mái
chùa cổ kính tạc vào vách núi.
Chúng tôi xuống núi mang theo niềm
tin và sự hoan hỉ vì đã mang ước nguyện đến được thánh địa của Bồ Tát
Văn Thù. Nhiều người trong đoàn còn luyến tiếc vì thời gian chiêm bái
nơi này ít quá. Phật tử Diệu Hỷ - người già gần 80 tuổi trong đoàn chúng
tôi như khỏe thêm ra. Cụ bảo Bồ Tát độ cho cụ đấy. Và chúng tôi tin là
như thế!
Chiêm ân công đức của Đức Phật, của Thượng tọa và hai vị
Đại Đức, chúng tôi đã có một chuyến hành hương an lạc. Không chỉ là
chiêm bái cầu nguyện mà thực sự đây là một hành trình tìm lại những gì
thanh khiết nhất. Tôi hiểu tại sao trước khi vào lễ Phật, Thượng tọa
Thích Minh Hiền lại cho chúng tôi xông hương. Thầy luôn dạy chúng tôi
rằng không phải chỉ thơm tho sạch sẽ bên ngoài mà cái quan trọng là tâm
phải trong sáng.
Con người khi sinh ra đã có Tâm và Thân, Thiện và Ác. Vì vậy, khi nào
tâm trí của con người bị vô minh phiền não che lấp thì đó chính là
nguyên nhân đưa đến sự đau khổ. Sự khổ đau đó chỉ chấm dứt khi nào tâm
con người được trong sáng, không còn ngộ nhận, không còn vấp ngã.
Quá trình tu tập để phát triển trí tuệ, làm sáng cái đức sáng, thân
với nhân tâm thì đạt được hạnh phúc; tham vọng ích kỷ được chuyển hóa
thành vị tha, hận thù được chuyển hóa thành từ bi, mê muội được chuyển
hóa thành trí tuệ.
Trong quá trình chuyển hóa đó, nội tâm được gạn lọc. Những cặn bã vô
minh được tẩy trừ, để tâm trí hoàn toàn trong sáng. Đó chính là cao điểm
của trí tuệ và sự giác ngộ.
Diệu Giới (Tin tức)