Nhân quả có 2 loại:
-Nhân quả đồng thời là thế giới chuyển biến sát na
của A Lại Da, thế giới biến dịch sinh tử, là sự vận hành tự nhiên trùng
trùng duyên khởi vô lượng pháp trong vũ trụ còn gọi là pháp chấp.
-Nhân quả khác thời nương vào nhân quả đồng thời mà
phát hiện, là thế giới chuyển biến chu kỳ của Mạt na, thế giới phần đoạn
sinh tử. Nhận thức có: quá khứ - hiện tại - vị lai trải qua ba cõi.
Nhân quả khác thời là hành động tự nhiên của thân căn sinh lý còn gọi là
ngã chấp.
Nghiệp: trải qua tiến trình 5 uẩn, ý chí cải sửa nhân quả khác thời
thành nghiệp ác hay thiện. Nghiệp có 3: thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý
nghiệp. Ý nghiệp là mấu chốt điều khiển thân-khẩu hành động tạo nghiệp.
Vậy, nhân quả đồng thời là căn bản làm nền tảng duyên khởi nhân quả
khác thời để tạo ra nghiệp. Như vậy, trong nhân quả chưa có nghiệp,
trong nghiệp đã hàm chứa nhân quả. Nhân quả khác thời và nghiệp giống
nhau ở hành động của thân căn nhưng khác nhau vì nhân quả hành động tự
nhiên còn nghiệp hành động có tác ý.
Đức Phật có nói: “nhân thân nan đắc” tức được thân người là khó. Trên
thế giới, hiện nay có khoảng 6 tỷ người, nhưng không ai giống ai về
hình dáng lẫn tính tình,..? Hình dáng có cao-thấp, mập-ốm, đẹp-xấu, trắng-đen, thân đầy đủ căn hay khuyết tật,…; Hoàn cảnh sung sướng thanh nhàn-vất vả lo toan, giàu sang-bần hàn, hạnh phúc-đau khổ,…; Sự hiểu biết sâu- cạn, thông minh-tối dạ, có học-thất học,…; Tính tình
hiền-dữ, thật thà-ranh ma, tế nhị-thô lỗ, …các tôn giáo khác cho đó là
“định mệnh”, nhưng Đạo Phật cho là “nhân-quả” của mỗi người tự tạo: quá
khứ làm việc thiện thì hiện tại được hưởng những điều tốt đẹp, làm điều
ác thì hiện tại nhận lãnh những điều xấu xa. Do đó “chính mình tự chịu
trách nhiệm vận mệnh của mình”. Đức Phật có nói: “được làm người rất
quý” vì con người có ý chí biết cải sửa nhân quả thành nghiệp, chuyển
nghiệp ác thành thiện cho đến thuần thiện, nếu đủ duyên sẽ dứt nghiệp.
Vậy, nếu hiểu rõ nhân quả, cách chuyển nghiệp và sẽ chuyển ngay trong
hiện tại: cái quả hiện tại đang nhận chịu, mình có quyền dùng ý chí kinh
nghiệm cải sửa “quả xấu thành quả tốt, quả tốt thành quả tốt hơn”, hoặc
ngay trong nhân quả và nghiệp lặng lẽ thấy rõ mọi tiến trình diễn biến
của nó thì “bất muội nhân quả và nghiệp mà phi nghiệp”.
Thông qua 15 hạng chúng sanh để phân tích nhân quả, nghiệp và cách
chuyển nghiệp như thế nào, nhất là của người và trời Dục giới trong cuộc
sống hiện tại.
Trước hết nói về nhân quả đồng thời: là thế giới sinh diệt
sátna luôn vận hành tự nhiên trùng trùng duyên khởi ra vô lượng pháp
trong vũ trụ, gom gọn là 15 hạng chúng sanh.
Nhân quả khác thời: là thế giới sinh diệt chu kỳ của mạtna,
thế giới có thân căn sinh lý và trần cảnh vật lý đều là thức biến nên
luôn thu hút giao thoa lẫn nhau để nhận thức phát hiện. Thân căn có ba
tương ưng với ba trần cảnh để phát hiện ba thức: cõi Dục có thân căn phù
trần giao thoa ngoại pháp phát hiện cái nhìn, cõi Sắc có thân căn tịnh
sắc giao thoa nội pháp phát hiện cái thấy tức cảm giác, cõi Vô sắc có
thân căn tịnh sắc vi tế giao thoa pháp trần phát hiện cái biết phân
biệt. Nhân quả khác thời luôn diễn biến, nhưng chúng sanh trong ba cõi
khó nhận biết.
*Cõi Dục giới: tạm chia có ba trường hợp nhân quả khác thời như sau:
1- Khi thân căn có nhu cầu sinh lý tự nhiên như: đi, đứng, nằm, ngồi,…thường hành
động bộc phát không ý thức, hành động này đôi khi dẫn đến thiệt hại
cho chính bản thân (vập đầu, té ngã,…) hoặc cho đối tượng (đạp chết con
vật, đổ bể đồ vật,…).
2- Khi thân căn đối xúc với trần cảnh phát sinh cảm giác dễ chịu hoặc khó chịu.
3- Khi thân căn có nhu cầu bồi dưỡng thì phát khởi dục vọng.
Ba nhân quả khác thời trên sẽ đưa đến những hành động:
Bốn đường ác: có thân căn sinh lý thuần phù trần, tâm si mê
đến mức ý chí ẩn khuất, chỉ có cảm giác và phân biệt lờ mờ, luôn hành
động theo dục vọng bản năng, thuần nhân quả khác thời. (1) Hành động tự
nhiên theo nhu cầu, nếu có sự cố vẫn thản nhiên như không có chuyện gì
xảy ra. (2) Tâm quá ngu si nên vui-buồn xảy ra cứ nhận lờ mờ thế thôi.
(3) Khi thân căn sinh lý có nhu cầu thì dục vọng khởi lên, lập tức hành
động chiếm hữu ngoại pháp theo bản năng sinh tồn nhằm thỏa mãn thân căn.
Tâm 4 đường ác được biểu hiện: Địa ngục tâm ù lỳ, Ngạ quỷ tâm tham lam, Súc sanh tâm sân giận, Atula tâm ganh tỵ thích gây sự.
Loài Người: có thân căn gồm phù trần và tịnh sắc, bắt đầu có
ý chí, sống theo luân lý. Khi thân căn sinh lý có nhu cầu, dục vọng
khởi lên, liền tác ý tập trung vào một giác quan cho căn-trần-thức đắm
nhiễm thấy rõ sự vật và cảm giác, rồi tư tưởng phân biệt suy tính lên kế
hoạch chiếm hữu, thuộc ý nghiệp; Ý chí sai thân-khẩu hành động chiếm
hữu ngũ dục (sắc đẹp, tiền tài, danh lợi, ăn uống, ngủ nghỉ) thuộc thân
nghiệp-khẩu nghiệp. Con người do mới tiến hóa nên tâm thức đứng giữa
ranh giới ác và thiện, vì vậy môi trường sống rất quan trọng.
Trong môi trường không luân lý: dễ bị dục vọng chi phối
mạnh, ý chí đồng hóa với tâm bốn đường ác và hành động tạo nghiệp theo
bản năng, đôi lúc đối cảnh tâm thiện khởi lên, nhưng ý chí bị ngũ dục
lôi cuốn chuyển thiện thành ác. (1) Do tạp niệm nên hành động thường
không có ý thức, khi sự cố xảy ra, tập trung tư tưởng phân tích thấy rõ
sự thiệt hại và bấy giờ “chỉ thấy lỗi người không thấy lỗi mình”, ý chí
bị tâm ác đồng hóa lập tức sai thân khẩu đổ trút mọi lỗi lầm cho người
khác, thậm chí còn làm gia tăng sự oán thù,…(2) Ý chí xui thân khẩu hành
động quá trớn: vui thì nói cười ngặt nghẽo, buồn thì than khóc ủ ê
(thiếu ý thức), hoặc xui thân hành động chiếm hữu ngoại sắc để lạc thú
tăng trưởng mạnh như: xì ke, rượu chè, cờ bạc, dâm dục,…(ngạ quỷ) hoặc
bực tức ganh tỵ với thành công của người khác (atula),…(3) “Chỉ nghĩ đến
mình”. Sau khi tập trung căn-trần-thức thấy rõ sự vật, ý chí bị đồng
hóa với dục vọng bản năng, lập tức xui giục thân khẩu hành động chiếm
hữu ngũ dục nhằm thỏa mãn nhu cầu bản thân (ngạ quỷ, súc sanh, atula).
Hiện tại cố ý cải sửa nhân quả chuyển thành nghiệp ác, sẽ nhận lãnh quả
ác.
Trong môi trường có luân lý: ý chí chế ngự được dục vọng,
thường hành động tạo nghiệp thiện, đôi lúc đối cảnh tâm ác khởi lên liền
dùng ý chí chế ngự chuyển ác thành thiện.(1) Sau sự cố xảy ra, giật
mình tỉnh thức biết xấu hỗ, ăn năn, hối lỗi, suy nghĩ tìm cách khắc phục
làm giảm đi những thiệt hại do mình gây ra. (2) Sau khi tư tưởng phân
biệt nguyên nhân vui-buồn để rồi ý chí chế ngự “không vui vui quá, không
buồn buồn tênh”, vui cùng với niềm vui thành công của người khác hoặc
chọn khổ làm niềm vui như xả thân cứu người trong hoàn cảnh nguy
nan,…(3) Sau khi tập trung căn-trần-thức thấy rõ sự vật, tư tưởng suy
nghĩ phân tích cách chiếm hữu ngũ dục phù hợp luân lý trước khi ý chí
quyết định sai thân khẩu hành động mà không gay thiệt hại cho một ai,
“nhường cơm xẻ áo” giúp người đồng cảnh ngộ, cơ hàn lỡ vận,…Hiện tại đôi
khi đang nhận quả ác, nhưng luôn ý thức cải sửa nhân quả chuyển thành
nghiệp thiện thì sẽ giảm nghiệp ác nhận được quả thiện.
Trời Dục giới: ngoài ý chí còn có học vị, kiến thức, kinh
nghiệm,…tâm hướng thiện, luôn suy nghĩ chín chắn, phân tích, tổng hợp kỹ
lưỡng trước khi ý chí quyết định hành động chiếm hữu ngũ dục cho phù
hợp đạo lý, thuộc ý nghiệp. Sống “tri túc thiểu dục”, chọn luân lý làm
thước đo trong cuộc sống, thuộc thân nghiệp-khẩu nghiệp. (1) Có ý thức
trong hành động, thường ít xảy ra sự cố, nếu có thì nhanh chống khắc
phục tốt. (2) Dùng ý chí, kiến thức, kinh
nghiệm,…thay đổi hoàn cảnh duy trì niềm vui thanh cao. (3) Chiếm hữu
ngoại sắc đáp ứng nhu cầu thân căn sinh lý thanh cao hơn người, thường
chọn món ăn tinh thần làm chính như dùng kiến thức, kinh nghiệm,…của
mình cống hiến cho xã hội, cho nhân loại: Nhà bác học phát minh ra nhiều
đề tài khoa học, sản xuất ra nhiều của cải vật chất giúp nhân loại tận
hưởng sự an nhàn trong cuộc sống; Nhà giáo tận tâm đem hết kiến thức của
mình hướng dẫn giảng dạy cho học sinh-sinh viên có một tri thức, đạo
đức làm hành trang đi vào cuộc sống; Ngành y dược với lương tâm nghề
nghiệp tận lực cứu chữa cho mọi người khỏi bệnh được thân thể khỏe mạnh;
Nhà báo tâm trong sáng nhận định chuẩn xác đăng tải các thông tin giúp
nhân dân nắm bắt kịp thời tình hình trong và ngoài nước, nêu gương
“người tốt việc tốt” cho mọi người học tập góp phần củng cố cộng đồng xã
hội đang xuống dốc về đạo đức,…; Nhà hảo tâm với tình thương tràn đầy
sẵn sàng “bố thí, giúp đỡ” cho mọi người thoát khỏi cảnh đói nghèo; …Như
vậy quả đã tốt nay cải sửa chuyển thành quả tốt hơn, sẽ tiến hóa lên
cao hơn.
Nhưng, trong thời đại ngày nay, vật chất ngút trời, ngũ dục lung lạc ý
chí, tư tưởng có sự so sánh rồi đăm ra nhàm chán với “đức hạnh tri túc
thiểu dục”. Trước đây, nhà bác học, nhà giáo, nhà báo, bác sĩ, kỹ sư,
nhà hảo tâm,…luôn có hoài bão học tốt với tâm huyết cống hiến hết đời
mình vì sự nghiệp nhằm mục đích “mình vì mọi người”. Còn nay thì một số
chuyển tâm huyết thành mục đích “mọi người vì mình”, mục tiêu phải đạt
là “danh lợi-tiền tài” cho rằng “có danh lợi, tiền tài muốn gì cũng
được”. Từ đó, kiến thức-kinh nghiệm,…đã bị thương mại hóa, trở thành món
hàng trao đổi mua-bán miễn sao đạt lợi nhuận cao!?! Bốn đường ác hành
động ác đã đành vì tâm thức quá u tối, còn trời Dục giới sống đạo lý, có
phước báo, thông minh nhưng ý chí bị ngũ dục cám dỗ dẫn đến hành động
sai lầm mà tự để mình sa lầy vào tội ác. Như vậy, đã có quả tốt nay cải
sửa chuyển thành quả xấu ác, sẽ rơi xuống bốn đường ác. Thật đáng
tiếc!!!
Cõi Dục, bốn đường ác tâm tán loạn quá si mê không hề biết nhân quả
và nghiệp là gì, luôn hành động theo bản năng tức thuần nhân quả khác
thời. Người-trời Dục giới dùng ý chí, kinh nghiệm, kiến thức,…cải sửa
nhân quả khác thời tạo nghiệp, do tạp niệm nên không làm chủ được tâm
tức không làm chủ được nghiệp, nên có lúc thiện có lúc ác và cứ quanh
lộn mãi.
*Cõi trời Sắc giới: Qua thời gian tỉnh ngộ, tư tưởng
nhàm chán, người-trời Dục giới quyết tâm bỏ ác hướng thiện, tu thiền
định để làm chủ nghiệp, thăng hoa lên cõi Sắc.
Tìm nơi thanh tịnh, ý chí quyết định xui thân hành thiền, tập trung
tư tưởng vào một đề mục ngoại pháp đã chọn, đây là ý nghiệp và thân
nghiệp. Khi tập trung được liên tục đạt nhất niệm, chuyển nghiệp ác
thành thiện, chuyển ngoại pháp thành nội pháp tức “ly dục sinh hỷ lạc”, đắc Sơ thiền.
Khi nội pháp tiếp xúc thân tịnh sắc căn tạo sự rung động sinh cảm giác
hỷ lạc, phát khởi dục vọng, đây là nhân quả khác thời. Tâm mong muốn
chiếm hữu nội pháp để tận hưởng cảm giác, thuộc ý nghiệp; ý chí thúc
giục thân nhập định, thuộc thân nghiệp. Khi đạt “định sanh hỷ lạc” đắc Nhị thiền. Tiếp tục định kỹ lâu đạt “ly hỷ diệu lạc” đắc Tam thiền.
Cõi Sắc, tu thiền định tâm nhất niệm, làm chủ được nghiệp, thấy được
nhân quả khác thời cõi Dục. Dùng ý chí mạnh, kinh nghiệm, kiến thức dồi
dào phối hợp với định cải sửa nhân quả khác thời của thọ chuyển thành
nghiệp hoàn toàn thiện bởi nội pháp tự phát khởi từ nội tâm không tổn
hại đến ai. Dùng định nhất niệm kéo dài thiện nghiệp.
*Cõi trời Vô sắc giới: Qua thời gian, Tam thiền nhận
biết cách chuyển nghiệp chưa thuần thiện, dùng định lực kỹ lâu sâu thăng
hoa lên Tứ thiền sắc giới.
Tứ thiền, trong thiền định, thấy được nhân quả cõi Dục, cõi
Sắc. Khi thân căn sinh lý tịnh sắc vi tế tiếp xúc pháp trần có cái biết
phân biệt, khởi dục vọng muốn hiện hữu, hình thành nhân quả khác thời.
Sau trải nghiệm, biết rằng “an trú trong hiện tại” sẽ không còn dính mắc
vào thân và cảm giác, Tâm mong muốn chiếm hữu pháp trần, thuộc ý
nghiệp; Ý chí thúc giục thân nhập định kỹ lâu sâu để tận hưởng “hiện tại
lạc trú” thuộc thân nghiệp, cải sửa nhân quả khác thời của tưởng thành
thuần thiện nghiệp. Tiếp tục tập trung định lực hơn nữa thăng hoa lên Tứ Không chìm đắm vào “tịch tịnh trú”, dùng định lực “tiêu dung nhân quả khác thời
của sắc, thọ”, thấy được: “nhân quả khác thời”, “nhân quả đồng thời”,
đỉnh cao “dường như tự tại không dính mắc vào nhân quả và nghiệp”. Ở
đây chỉ có thuần ý nghiệp thiện rất vi tế.
Cõi Vô Sắc nhất niệm cao sâu, với ý chí mạnh mẽ, kinh nghiệm, kiến
thức,…tuyệt vời tập trung định lực chìm đắm trong “hiện tại lạc trú” và
“tịch tịnh trú” 24/24 giờ, thấy duyên khởi của các pháp tức thấy nhân
quả, sống tự tại “gió bát phong không động tới” nên nghĩ rằng mình đã
hoàn toàn “bất lạc nhân quả và dứt nghiệp”.
Thật ra, nhân quả là dòng chuyển biến sátna không ngừng nghỉ của vũ
trụ nói chung và của thế giới chuyển biến chu kỳ nói riêng, như vậy
không thể “bất lạc nhân quả” mà là “bất muội nhân quả”. Và chỉ có tâm
“vô niệm” mới “bất muội nhân quả và phi nghiệp”. Tâm vô niệm tức là nhận
lại Chân Tâm, rồi lặng lẽ như thật biết tiến trình hình thành nhân quả
và ý chí tư tưởng chuyển nhân quả thành nghiệp diễn biến như thế nào
nhận như thế nấy của bản thân gọi là “hiện tiền lạc trú”, khi tùy thuận
thị hiện đến thấu đáo “nhân quả và nghiệp” của toàn thể chúng sanh trong
vũ trụ gọi là “hiện pháp lạc trú”.
*Tứ Thánh:
-Nhập lưu: Khi tu tập được thức trong sáng, cơ duyên gặp
Thiện tri thức khai ngộ buông xả mọi ý niệm, trở về Chân tâm rồi “lặng
lẽ như dòng nước” nhìn thấy rõ ngay trong “sóng xác thân ngũ uẩn” tiến
trình nhân quả của bốn đường ác hiện tiền diễn biến như thế nào nhận như
thế nấy mà không cải sửa. Vì rõ biết nhân quả nên “bất muội nhân quả
của bốn đường ác” và vĩnh viễn không có hành động ác. Còn người và trời
Dục giới tưởng mình đắc Nhập lưu, nhưng thật ra hiện tại thoáng thấy đã
vội vàng dùng ý chí, kinh nghiệm, kiến thức cải sửa nhân quả khác thời
thành nghiệp theo luân lý, vì không rõ biết nên khi gặp trường hợp ngũ
dục quá tải, rớt xuống bốn đường ác
-Nhất vãng lai: Tiếp tục trở về Chân tâm, lặng lẽ thấy rõ
ngay trong xác thân ngũ uẩn tiến trình hình thành nhân quả và ý chí,
kinh nghiệm cải sửa nhân quả chuyển thành nghiệp ác hoặc thiện của
người-trời Dục giới hiện tiền diễn biến như thế nào nhận như thế nấy. Vì
rõ biết nên “bất muội nhân quả về sắc và phi nghiệp của người-trời Dục
giới”. Còn cõi Sắc tưởng mình đắc Nhất vãng lai, nhưng thật ra hiện tại
thấy rõ đã vội dùng ý chí, kinh nghiệm, định lực đè nén chạy trốn nhân
quả và chuyển nghiệp của người-trời Dục giới thăng hoa lên tầng trời cao
hơn. An trú trong thiền định, thời gian nhàm chán, xuất định, nếu không
tiến hóa thì thoái hóa hoặc gặp hoàn cảnh quá tải, ngũ dục lôi cuốn rớt
xuống cõi Dục.
-Bất lai: Tiếp tục trở về Chân tâm, lặng lẽ biết rõ ngay
trong xác thân ngũ uẩn tiến trình hình thành nhân quả và ý chí, kinh
nghiệm phối hợp định cải sửa nhân quả chuyển thành nghiệp từ thiện sang
thiện hơn của cõi Sắc hiện tiền diễn biến như thế nào nhận như thế nấy.
Vì rõ biết nên “bất muội nhân quả về thọ và phi nghiệp của cõi Sắc”. Còn
Tứ thiền sắc giới tưởng mình đắc Bất lai, nhưng thật ra thấy rõ cõi
Sắc cải sửa nhân quả thành nghiệp rồi tập trung ý chí mạnh, kinh nghiệm
tuyệt vời phối hợp định lực sâu an trú trong “hiện tại”, nhưng thời gian
nhàm chán rồi xuất định, nếu gặp hoàn cảnh quá tải có thể bị rớt xuống
cõi Dục.
-A la hán: Đã trở về an trụ Chân tâm, lặng lẽ như thật biết
dòng chuyển biến nhân quả đồng thời duyên khởi nhân quả khác thời nên
“bất muội nhân quả”. Nếu còn mang xác thân thì vẫn còn trả nghiệp cũ,
nhưng các Ngài lặng lẽ như thật biết tiến trình ý chí, tư tưởng cải sửa
nhân quả thành nghiệp diễn biến như thế nào nhận như thế nấy nên “nghiệp
mà phi nghiệp”. Nếu các Ngài nhập “diệt thọ tưởng định”, trụ vào Chân
không thì “phi nhân quả, phi nghiệp”. Còn Tứ Không tưởng mình đắc A la
hán, nhưng thật ra, chú tâm chuyển nghiệp ngày càng thuần thiện, tư
tưởng rất vi tế thấy rõ tiến trình duyên khởi Tứ thiền, lại an trú trong
“tịch tịnh”. Nhưng rồi thời gian nhàm chán, xuất định, từ đỉnh cao tụt
dóc xuống thấp, nếu chướng duyên có thể tụt đến tận cùng bốn đường ác.
Ba bậc Thánh đầu từng bước trở về Chân Tâm, lặng lẽ thấy rõ nên “bất
muội nhân quả từng phần và dứt nghiệp từng loại chúng sanh”. Thánh
Alahán tự độ đã xong, trở về an trú Chân Không nên “phi nhân quả và phi
nghiệp” của chính mình.
*Ba bậc Tam Tôn
-Bích chi, Duyên giác: Tâm bất động, các Ngài hòa mình vào
cuộc sống để tìm hiểu hoàn cảnh của chúng sanh mà luôn “bất muội nhân
quả, nghiệp mà phi nghiệp”.
-Bồ tát Thánh: Phát bồ đề tâm cứu độ chúng sanh. Tâm luôn
bất động, từ “phi nhân quả, phi nghiệp” mà từng bước tùy thuận “nhân quả
và nghiệp” ứng hóa thân một chúng sanh đến nhiều chúng sanh, thị hiện
trong một cõi đến nhiều cõi, để dần dần biết rõ nhân quả đồng thời của
vũ trụ.
-Như lai: Tâm như như bất động, lập tức ứng hóa “nhân quả và
nghiệp” để độ chúng sanh trong toàn thể pháp giới. Và, Như lai thấu
suốt “nhân quả và nghiệp” toàn thể chúng sanh trong vũ trụ.
Vậy, ba bậc Tam Tôn với tâm đại từ đại bi, tùy thuận “nhân quả và
nghiệp” ứng hóa nhiều thân chúng sanh, thị hiện trong nhiều cõi. Khi lập
tức ứng hiện vô lương thân trong vô biên cõi thành Như lai thì mới thật
sự “bất muội nhân quả của vũ trụ”.
Tóm lại, nhân quả đồng thời là dòng chuyển
biến tự nhiên của vũ trụ làm nền tảng duyên khởi nhân quả khác thời. Tùy
nhận thức của mỗi chúng sanh trong 3 cõi mà cải sửa nhân quả khác thời
thành nghiệp thiện hoặc ác. Muốn chuyển nghiệp, mỗi chúng sanh
cần thay đổi nhận thức ngay trong hiện tại, bởi “những gì ở quá khứ được
cải sửa ngay hiện tại, những gì ở tương lai đều nằm ngay hạt giống hiện
tại”. Bốn đường ác tâm tán loạn, chưa có ý chí nên không biết cải sửa.
Người-trời Dục giới tâm tạp niệm, cải sửa nhân quả thành nghiệp khi
thiện khi ác; Trời Sắc giới tâm nhất niệm, cải sửa nhân quả thành nghiệp
thiện; Trời Vô sắc giới tâm nhất niệm sâu, chuyển nghiệp thiện sang
thuần thiện. Tuy nhiên, do chưa hiểu rõ nhân quả và nghiệp nên đè nén
đối trị chạy trốn để tiến hóa, nếu quá tải vẫn trở lại hành động tạo
nghiệp ác. Để “tự cứu lấy mình” thì phải dứt nghiệp. Muốn dứt được nghiệp
thì phải thấu đáo nhân quả và nghiệp. Khi tâm vô niệm, nhận lại Chân
tâm, lặng lẽ thấy rõ tiến trình ngũ uẩn diễn biến như thế nào nhận như
thế nấy tức thấy rõ trong nghiệp có nhân quả hoặc ngay trong hiện tại có
cái hiện tiền. Ba bậc Thánh đầu, trên đường trở về Chân Tâm, từng bước
“bất muội nhân quả và phi nghiệp” từ Địa ngục đến Tam thiền. Thánh
Alahán an trụ Chân Tâm, còn xác thân thì “bất muội nhân quả, nghiệp mà
phi nghiệp”, bỏ xác thân thì “phi nhân quả, phi nghiệp”. Ba bậc Tam Tôn
“phi nhân quả, phi nghiệp” nhưng với lòng bi mẫn tùy thuận vào “hiện
pháp” mà thị hiện “nhân quả và nghiệp” dài dài để độ chúng sanh.
Và, chỉ có Như Lai mới rốt ráo thấu suốt “nhân quả và nghiệp” của vô lượng chúng sanh trong toàn thể pháp giới vũ trụ.
Thí dụ nhân quả và nghiệp trên nền tảng là “Tâm”:
Thí dụ 1: Có lúc chân bước mà tâm nghĩ ngợi mông lung, vô ý
đạp nhằm con vật gì đó trượt chân, xuýt té đây là hành động nhân quả
(nhân là 2x2=4 là quả). Sau khi tập trung nhìn kỹ thấy con rắn mối đã bị
đạp chết. Nếu tâm ác sẽ rủa chưởi “tại mày mà tao xuýt té, mày chết
đáng đời”, từ nhân quả chuyển thành nghiệp ác, linh hồn nó oán thù, lúc
này 2x2=50. Nếu tâm thiện sẽ cảm thấy hối hận, xin lỗi rồi đem chôn xác
nó, từ nhân quả chuyển thành nghiệp thiện, lúc này 2x2=2. Còn nếu hiểu
đạo tụng chú Vãng sanh và nguyện cầu linh hồn nó được vãng sanh, nó rất
cám ơn, từ nhân quả chuyển thành nghiệp thiện, lúc này 2x2=0 mà có thêm
phước báo.
Thí dụ 2: Hàng ngày có một ông lão ăn mày đi ăn xin qua các nhà có ông chủ rất giàu:
Ông 1: Miễn cưỡng bố thí vì sợ mất mặt trước quan khách đang dự tiệc, bố thí mà tiếc của.
Ông 2: Rất thương cảm, sẵn sàng bố thí không chỉ một lần mà thường xuyên liên tục.
Ông 3: Lặng lẽ bố thí với tâm “không có người cho, không có vật cho, không có người nhận”.
Ông 4: Bố thí vật chất còn bố thí pháp. Giải thích rõ cho
ông ăn mày biết do tiền kiếp đã gây nghiệp ác hiện tại nhận quả xấu, rồi
hướng dẫn cách tu tập chuyển nghiệp và chấm dứt nghiệp.
Vậy, ông lão ăn mày, hiện tại nhận quả ác từ quá khứ, nhưng không
biết chuyển nghiệp. Ông chủ (1)(2) đã tạo nhiều nghiệp thiện, đủ duyên
hiện tại hưởng phước báo nên tận hưởng sự giàu sang. Nhưng ông (1) tâm
keo kiết, hiện tại chuyển thiện thành nhân ác; Ông (2) tâm thiện, hiện
tại chuyển thiện càng thiện hơn. Ông (3) tâm “Tam luân không tịch”, đây
là Thánh A la hán. Ông (4) tâm “đại từ đại bi”, đây là Bồ tát Thánh tùy
thuận vào hiện tượng giới để cứu độ chúng sanh.