Căn bệnh mà chúng ta mắc
phải là sự ngu dốt, những cảm xúc phiền não, nhận thức sai lệch và khổ đau. Bởi
vì Đức Phật đã thoát khỏi mọi căn bệnh như thế, ngài thực sự là người chỉ dẫn
đáng tin cậy.
Như trong các Kinh điển
có nói, làm sao người ta, những kẻ trong hoàn cảnh khó khăn như chúng ta có thể
giúp chúng ta thoát khỏi bãi cát lún? Giống như vậy, những người, không thể tự
thoát khỏi vòng luân hồi không thể giải thoát chúng ta khỏi vòng luân hồi. Bởi
thế, Đức Phật là người dẫn đường chân chính, và giáo lý là thứ thuốc hữu hiệu.
Sự giác ngộ của Phật
Quan điểm Tiểu thừa
Theo quan điểm Tiểu thừa,
Phật Thích Ca Mâu Ni thành tựu Chánh giác ở Bồ Đề Đạo Tràng bằng cách chinh phục
mọi che chướng cảm xúc và nhận thức. Trong tiếng Tạng, một bậc giác ngộ là sangye. Sang nghĩa là tịnh hóa các cảm xúc phiền não (nyondrip) và che chướng nhận thức (shedrip). Gye nghĩa là sự
tỉnh thức của trạng thái tràn đầy những phẩm tánh hoàn hảo của giác ngộ. Trạng
thái tỉnh thức của Phật thoát khỏi mọi che chướng và sở hữu các phẩm tánh hoàn
hảo của kiến thức, tâm từ, lòng bi mẫn và trí tuệ.
Quan điểm Tiểu thừa nhìn
nhận Phật Thích Ca Mâu Ni là một chúng sinh bình thường. Dĩ nhiên, phải công nhận
rằng chúng sinh bình thường này rất phi thường, nhưng từ quan điểm này, ngài sở
hữu những uẩn bình phàm.
Quan điểm Đại thừa
Theo Đại thừa, Phật
Thích Ca Mâu Ni giác ngộ trong cõi Akanishtha, cõi trời cao nhất – một cõi Phật,
không thể nhìn thấy bởi người thường.
Với lòng từ bi, vì lợi
ích của người khác, ngài tái sinh trong cõi người và “giả vờ” trải qua toàn bộ
quá trình của “mười hai hành động[1],” bao gồm cả hành động
giác ngộ dưới tán Bồ đề. Bởi Phật đã hoàn toàn giác ngộ, ngài thoát khỏi mọi trải
nghiệm của luân hồi bởi vì ngài không bị trói buộc bởi các uẩn thông thường.
Ngài chỉ hiển bày các uẩn này để chúng sinh bình phàm có thể nhận thấy và đưa
ra một tấm gương về con đường giác ngộ.
Phật giác ngộ nhờ con đường
Bồ Tát, con đường mà ngài đã trải qua từ đầu đến cuối. Ngài nói rằng với ngài
điểm khởi đầu của con đường bồ đề tâm là trong cõi địa ngục. Ngài đang kéo chiếc
xe bò với một người khác, và cả hai đều bị tra tấn dữ dội. Phật nghĩ rằng, “Tại
sao tôi không nhận lấy tất cả nghiệp này, tại sao không trở thành đối tượng dày
vò và giải thoát cho người kia?” Ngài bảo các vị yama[2],
những kẻ đang tra tấm ngài, hãy để điều này xảy ra. Nhưng họ nói, “Mọi người đều
có nghiệp riêng! Ông không thể giải thoát bất kỳ ai khỏi nghiệp riêng của họ,”
và đánh vào đầu ngài bằng cái búa sắt. Phật chết, nhưng bởi vì nghiệp quả tốt
lành mà ước nguyện của ngài tạo ra, ngài ngay lập tức được giải phóng khỏi cõi
địa ngục đó.
Ngài đã giác ngộ ở
Akanishtha; sau đó ngài ở Tushita, một cõi Phật nơi mà Phật Vị lai, ngài Di Lặc
hiện tại an trụ. Khi thời gian chín muồi, và mọi người thích hợp để một vị Phật
tái sinh trong thế giới này, ngài được thụ thai trong tử cung người mẹ.
Sự xuất hiện của Phật trong thế giới này
Nếu chư Phật đã làm cạn
kiệt mọi nguyên nhân và điều kiện của luân hồi và sự xuất hiện trong luân hồi
cũng như hoàn toàn chứng ngộ chân lý tuyệt đối của tánh không, làm sao và tại
sao các ngài thị hiện trong thế giới này?
Điều này xảy ra nhờ hai
khẩn nguyện; khẩn nguyện của hữu tình chúng sinh có kết nối với chư Phật và
đánh thức khỏi trạng thái ngu dốt như mơ của tâm, và khẩn nguyện của chư Phật
làm lợi lạc chúng sinh và đánh thức họ khỏi trạng thái huyễn hoặc như mơ đó.
Khi khẩn nguyện của hữu tình chúng sinh và của chư Phật gặp nhau, chư Phật xuất
hiện trên thế giới.
Sự xuất hiện của các
ngài giống như trăng trên trời, được phản chiếu rõ ràng và tự nhiên trên nhiều
ao hồ bên dưới. Nhưng điều này không ám chỉ rằng Đức Phật tự mình “hạ xuống” từ
hư không, hay có một vị Phật “xuống đây” và một vị khác “ở trên kia,” cũng
không phải có nhiều vị Phật khắp mọi nơi.
Một nghìn vị Phật
Trong thời đại đặc biệt
này, một nghìn vị Phật sẽ xuất hiện. Theo các miêu tả truyền thống, tất cả những
gì chúng ta thấy từng là chân không hay hư không. Sau đó gió và mưa bão nổi
lên, tạo thành yếu tố đất. Mưa tiếp tục, và một nghìn bông sen nở. Các vị trời
nam và nữ thấy sự kiện này và tự hỏi nó tượng trưng cho điều gì. Các vị trời tuổi
cao, uyên bác có thể nhìn thấy tương lai nhờ sức mạnh của thiền định, đã nói rằng
đó là dấu hiệu trong thời đại này sẽ có một nghìn vị Phật. Bởi thế, nó được gọi
là kalpa zangpo, “thời đại xuất sắc.”
Cho đến nay, chúng ta đã
có bốn vị Phật. Trong mỗi thời của bốn vị Phật này, rất nhiều vị Phật khác đã
xuất hiện và làm lợi lạc chúng sinh. Nhưng có một vị tối cao trong mỗi thời, bậc
đảm bảo rằng mọi giáo lý của thời đại đặc biệt đó sẽ hòa hợp với lời dạy của vị
Phật đó. Vị Phật tối cao của hiện tại là Phật Thích Ca Mâu Ni, tuy nhiên có rất
nhiều các vị Phật khác đã đến thế giới này và làm lợi lạc chúng sinh. Ví dụ, Đức
Văn Thù, Đức Quan Âm và Đức Kim Cương Thủ đều là các vị Phật, nhưng các ngài thị
hiện dưới hình tướng chư Bồ Tát. Guru Rinpoche cũng là một hóa thân của Đức Phật.
Các vị Phật tối cao này
đều đến với mười hai hành động của một vị Phật, đạt giác ngộ và thuyết Pháp.
Trong trường hợp của Phật Thích Ca, ngài sinh ra là một vị hoàng tử, nhưng các
vị Phật không nhất thiết phải sinh ra làm hoàng tử như vậy.
Hai trí tuệ
Điều quan trọng là biết
rằng Phật có hai kiểu trí tuệ [jnana]:
trí tuệ nhìn thấy bản chất của mọi thứ như chúng là, và trí tuệ nhìn thấy tính
đa dạng của mọi hiện tượng.
Thứ mà Phật nhìn thấy từ
quan điểm hay trải nghiệm giác ngộ của ngài được gọi là rang nang trong tiếng Tạng. Nhận thức của chúng sinh khác được gọi
là shyen nang. Bởi thời gian là trống
rỗng, rang nang và shyen nang có thể xuất hiện cùng lúc.
Trí tuệ của việc nhận thấy mọi thứ bao gồm của nhận thức giác ngộ về mọi thứ rang nang, và nhận thức của chúng sinh, shyen nang. Nếu không phải như vậy, thì
chư Phật sẽ không thể thuyết giảng.
Chư Phật thuyết giảng ra sao
Một hình ảnh có thể giúp
chúng ta hiểu cách thức mà chư Phật thuyết giảng là hãy tưởng tượng hai người
trong một căn phòng: một người thức và người kia thì ngủ, và gặp phải ác mộng.
Người thức – Phật – có thể nhận ra rằng người kia đang gặp ác mộng. Điều này
không chỉ được hiểu qua sự suy luận mà còn qua nhận thức trực tiếp về cơn ác mộng
của người đó.
Mặc dù người thức có thể
nhận thấy cơn ác mộng của người kia một cách trực tiếp, trải nghiệm của người
mơ đó không trở thành sự thật của người thức. Bởi vậy người đang thức có thể chậm
rãi đánh thức người kia khỏi giấc mộng. Nhờ đó, anh ta có thể kéo người kia khỏi
giấc mơ và trở về thực tại, đó là sự không tồn tại của mọi cơn ác mộng. Đó là
cách mà chư Phật dạy hữu tình chúng sinh.
Khi bạn tỉnh dậy trong một
giấc mơ, giấc mơ có thể tiếp tục, nhưng mối quan hệ của bạn với nó đã thay đổi.
Đó là con đường của chư Bồ Tát, đặc biệt là trong giai đoạn sau thiền định. Khi
bạn hoàn toàn tỉnh dậy khỏi giấc mơ, đó là Phật quả. Bạn tỉnh thức với các trải
nghiệm hoàn toàn về sự thực và sự xuất hiện; nó không đúng khi nói rằng mọi
hình tướng đơn giản biến mất ở điểm này.
Ba thân của chư Phật
Bản chất của sự thật được
gọi là Pháp thân, và các hình tướng là Sắc thân. Một vị Phật hòa hợp với Pháp
thân trong khi xuất hiện như là Sắc thân.
Pháp thân
Trong trạng thái tuyệt đối
của niết bàn, trong Pháp thân, không có nhận thức và không có hình tướng. Nhưng
điều này không có nghĩa là Pháp thân là rắn chắc và cách biệt, hay một hư không
hoàn toàn tách biệt khỏi các hoạt động của chư Phật hay các hình tướng của Phật
quả, tức là hai hình tướng của Sắc thân – Báo thân và Hóa thân.
Báo thân
Các hình tướng Báo thân
khởi lên từ Pháp thân, thứ như hư không tràn khắp, xuất hiện chủ yếu với chư Bồ
Tát, những bậc trên con đường giác ngộ. Các Báo thân khởi lên thông qua duyên
khởi như là kết quả của nghiệp và sự rộng mở của chư Bồ Tát, và sức mạnh của
chư Phật hiển bày từ Pháp thân. Các hình tướng Báo thân không thể tiếp cận bởi
chúng sinh bình phàm.
Báo thân Phật làm lợi lạc
cho chư Bồ Tát, những bậc ít nhất đạt đến địa thứ nhất. Những vị Bồ Tát này có
thể nhìn thấy và thọ nhận giáo lý từ Báo thân Phật. Cách thức các ngài thọ nhận
giáo lý không giống như cách chúng ta nhận, thường là khẩu truyền. Ví dụ, các vị
Bồ Tát đơn giản có thể nhìn vào thân của Báo thân Phật và nhận ra các che chướng
của bản thân và cách để tịnh hóa chúng một cách rõ ràng.
Hóa thân
Từ quan điểm Tiểu thừa,
Phật được nhìn nhận như một chúng sinh bình thường, và chúng sinh bình thường
coi Phật là Hóa thân Phật. Từ quan điểm Đại thừa, Phật Thích Ca Mâu Ni là Hóa
thân Phật, người, như là cái bóng của Báo thân Phật, giáng sinh như một bậc
toàn giác từ cõi trời Tushita. Hóa thân Phật giống như những cái bóng của Báo
thân Phật, như mặt trăng phản chiếu hình bóng xuống ao.
Mặc dù chư Phật xuất hiện,
sự xuất hiện của các ngài không phải sự xuất hiện của chân lý tương đối bình
thường, ảo mộng, sản phẩm của tâm quan niệm và các lỗi lầm. Các ngài xuất hiện
một cách độc lập, nhưng sự xuất hiện này thanh tịnh chứ không có lỗi lầm. Bởi
thế, những phẩm tánh vô song của chư Phật được gọi là zakme kyi cho trong tiếng Tạng, nghĩa là “các phẩm tánh không lỗi lầm.”
Pháp thân có sức mạnh
làm khởi lên vô số các phẩm tánh không lỗi lầm. Mặc dù Hóa thân Phật Thích Ca
Mâu Ni trải qua đủ mười hai hành động của một vị Phật, từ cõi trời Tushita đến
khi nhập Niết Bàn, từ quan điểm Pháp thân của chư Phật, không hề có sự di chuyển
hay thay đổi nào.
Mục đích đằng sau việc
chư Phật đến thế giới này là để chỉ ra con đường giác ngộ. Đức Phật trải qua,
theo cách hoàn hảo nhất, đủ mọi giai đoạn của con đường mà chúng ta phải đi. Để
chỉ ra sự từ bỏ, Phật rời bỏ cung điện và từ bỏ mọi hài lòng như thể chúng bị
nhổ vào bụi. Ngài đi vào rừng, điều này giải thích tầm quan trọng của sự từ bỏ
các mối bận tâm, thứ thực ra tạo nên khổ đau và trói buộc.
Những phẩm tánh của Phật như một vị thầy[3]
Các phẩm tánh như một vị
thầy của Phật là rất rõ ràng. Ngài sở hữu cả hai kiểu trí tuệ, mười sức mạnh, bốn
trạng thái vô úy[4],
mười tám đặc điểm phân biệt của trạng thái tâm của Phât, ba mươi hai tướng tốt
và tám mươi vẻ đẹp.
Tám phẩm tánh của giác ngộ
Như trong Uttaratantra shastra có nói, trong tất cả,
Phật là tối thượng. Trạng thái Phật quả, hay giác ngộ hoàn toàn vô song, thoát
khỏi mọi lỗi lầm, và hoàn toàn đáng tin cậy.
Tâm giác ngộ có ba phẩm
tánh, làm lợi lạc chính bậc giác ngộ. Nó không giả tạo, tự nhiên và tự tỉnh thức,
nghĩa là tâm của Phật không chứng ngộ do kết quả của các điều kiện bên ngoài.
Ba phẩm tánh của chư Phật
làm lợi lạc người khác là trí tuệ vĩ đại; tâm từ lớn lao, sự chu đáo và từ bi
và sức mạnh làm lợi lạc vĩ đại.
Phẩm tánh làm lợi lạc bản
thân và phẩm tánh làm lợi lạc người khác, khi được thêm vào ba phẩm tánh được
kiệt kê trong hai loại trên, tạo thành cái đôi khi được gọi là tám khía cạnh của
giác ngộ.
2. PHÁP
Các ý nghĩa của từ “Dharma”
Từ “Dharma” trong tiếng Phạn có rất nhiều ý nghĩa khác nhau. Ví dụ, nó
có thể liên quan đến kiến thức, con đường, niết bàn, hiện tượng, đối tượng của
việc suy nghĩ, công đức, cuộc đời và tương lai. Ở đây Pháp liên quan đến Chánh
Pháp [hay Pháp cao quý], những giáo lý của chư Phật.
Vậy Pháp cao quý là gì?
Nó là điều mà các bậc giác ngộ nhìn nhận trực tiếp, là bản tánh chân thực của sự
thật, và là điều mà chư Phật giảng cho người khác cho người khác như là con đường.
Bởi thế, Pháp là con đường chân chính dẫn chúng ta thoát khỏi khổ đau của luân
hồi và vòng sinh tử.
Pháp như là con đường
Một vài giáo lý chỉ
thích hợp cho một vùng hay thời điểm đặc biệt, và khi thời điểm đặc biệt đó
trôi qua, sẽ không còn hữu ích nữa. Nhưng giáo lý của chư Phật phục vụ con người
liên tục xuyên suốt lịch sử và sẽ tiếp tục như vậy. Nguyên nhân của điều này là
bởi chúng đề cập đến tâm bên trong của chúng ta.
Ở Lerab Gar, tháng 9 năm
2000, Ngài Đạt Lai Lạt Ma nói rằng mọi phát triển khoa học và công nghệ với ý định
tạo ra một thế giới tốt hơn chỉ đóng góp cho các nhận thức về giác quan, trong
khi điều duy nhất giúp đỡ thức nội tại là trí tuệ. Nếu nó không cung cấp cách
thức đối phó với các vô minh che lấp trí tuệ bẩm sinh, thì dù khoa học và công
nghê có phát triển thế nào, nó cũng không tạo ra một thế giới tốt đẹp hơn. Dĩ
nhiên, khoa học và công nghệ sẽ tạo ra vài ảnh hưởng tích cực, nhưng chúng sinh
vẫn chịu nhiều khổ đau.
Đặc biệt trong thế kỷ 20
và 21, người ta nhận thấy điều này rõ ràng hơn bất kỳ thời đại nào khác trong lịch
sử loài người. Khi bạn xem tivi, những người nổi tiếng hay các ngôi sao dường
như hài lòng về vật chất, nhưng họ vẫn thất vọng; họ vẫn rất tệ.
Bởi vậy món quà lớn lao
là được thọ nhận giáo lý Phật Đà trong cuộc đời này, cơ hội lớn lao khi có
phương tiện để giải quyết vấn đề tâm, và đặc biệt là cái tôi và các vấn đề đi kèm.
Thật tuyệt vời khi trí tuệ và phương tiện thiện xảo được trao truyền không gián
đoạn từ thời Đức Phật, khoảng 2500 năm trước. Bởi thế, rất nhiều người đã chứng
ngộ nhờ trí tuệ và phương tiện thiện xảo. Giác ngộ không phải khả năng giả thuyết;
trí tuệ và phương tiện thiện xảo này đã và đang được sử dụng với thành công lớn
lao.
Dòng truyền thừa phương
tiện thiện xảo và trí tuệ vẫn còn cho đến nay, và chúng ta có cơ hội là một phần
của nó. Chính chúng ta có thể thực hành trong dòng truyền thừa này và trải qua
những lợi lạc từ đó. Nếu nó từng bị gián đoạn, sẽ thật khó để tái tạo một dòng
như thế.
Thành ngữ Tây Tạng có
câu:
“Pháp không phải sở hữu của ai cả; nó là tài sản của bất kỳ ai thực
hành nó.”
Nó không phải tài sản cá
nhân của bất kỳ vị thầy nào hay nhóm người đặc biệt nào. Nếu vị thầy không thực
hành, nó không thuộc về vị thầy, bởi vì Pháp không phải là một nghi lễ trống rỗng.
Giống như vậy, nó không phải là tài sản của nhóm người nào, bởi nó không giống
như triết học Cộng sản hay tương tự. Nó thuộc về bất kỳ ai thực hành. Bất kỳ cá
nhân nào thực hành Pháp sẽ được cải thiện bởi Pháp. Chính bạn có thể là người tận
dụng tối đa Pháp.
Pháp như là [đối tượng] Quy y
Mọi giáo lý Phật Đà có
hai đặc điểm. Đầu tiên chúng phải là một phương thuốc, hay cách đối trị với các
cảm xúc phiền não gây ra khổ đau cho chúng sinh. Chúng cần làm giảm những cảm
xúc phiền não mà chúng sinh trải qua, và một cách tuyệt đối tiêu diệt mọi
nguyên nhân. Giáo lý Phật Đà cũng cần cung cấp các bước nhờ đó hữu tình chúng
sinh tiến lên các cõi cao hơn, và một cách tuyệt đối giải thoát khỏi khổ đau
luân hồi và vòng sinh tử.
Các giáo lý cần cung cấp
nơi nương tựa theo cả hai cách. Bất kỳ điều gì hòa hợp với hai đặc điểm này là
giáo lý Phật Đà. Người ta cũng nói rằng ngoài giáo lý của Phật, những giáo lý
như vậy không thể được tìm thấy.
Pháp của Kinh điển và Chứng ngộ
Như ngài Vasubandhu nói
trong Abhidharmakosha, giáo lý của Đức
Phật Thích Ca Mâu Ni chia thành hai loại: Pháp của Kinh điển và Pháp của Chứng
ngộ.
Khía cạnh Kinh điển của
Phật Pháp được duy trì bởi sự nghiên cứu, bao gồm việc giảng dạy, lắng nghe,
biên soạn và tranh luận. Điều này liên quan đến cả che, trong tiếng Tạng nghĩa là giải thích Pháp và nyen nghĩa là lắng nghe Pháp.
Khía cạnh Chứng ngộ của
Pháp bao gồm thiền định và thực sự chứng ngộ. Khái cạnh này xuất phát từ khía cạnh
đầu tiên.
Bằng cách tham gia vào
các hoạt động này, chúng ta bảo tồn Pháp không chỉ trong các cuốn sách mà còn
trong sự chứng ngộ của chúng sinh. Chúng ta duy trì truyền thống Pháp kinh điển
và bảo tồn Pháp chứng ngộ. Nếu chúng ta đánh mất một trong hai, nó sẽ ảnh hưởng
rất lớn đến điều còn lại; Pháp sẽ không trọn vẹn. Giống như việc điều này rất
quan trọng với chúng ta, với thế hệ tương lai, điều quan trọng là có cơ hội
tham gia và trở nên uyên bác cả về Pháp của Kinh điển và Pháp của Chứng ngộ.
Giáo lý và Luận giải
Nói chung có hai kiểu
Kinh điển Phật giáo. Ka trong tiếng Tạng
là những lời dạy của chính Đức Phật và tencho
là các luận giải của các đại học giả xứ Ấn Độ và Tây Tạng.
Ka
Các giáo lý của Đức Phật
gọi là ka. Nhưng ka không chỉ gồm những lời mà Đức Phật nói ra. Ví dụ, Bát nhã tâm
kinh là ka, nhưng chính ngài Quan Âm
đã giảng về Bát nhã tâm kinh, khi trả lời câu hỏi của ngài Xá Lợi Phất. Nguyên
nhân nó được xếp vào ka là sự gia trì
của Đức Phật được chuyển đến ngài Quan Âm, người trở thành phát ngôn viên của Đức
Phật. Vì thế, Bát nhã tâm kinh là “ka
khởi lên từ sự gia trì.”
Có rất nhiều dịp khác mà
Đức Phật không nói, nhưng âm thanh đến từ nhiều phần khác của thân ngài. Các
giáo lý này được gọi là chotrul gyi ka,
tức ka kỳ diệu.
Chính Đức Phật gợi ý rằng
khi các giáo lý của ngài được kết tập, chúng cần được bắt đầu bằng câu, “Tôi
nghe như vầy …” Mọi giáo lý bắt đầu như thế đều là ka.
Những lời dạy của Phật
là thanh tịnh, hoàn hảo và an bình. Chúng hòa hợp với sự thật tương đối và tuyệt
đối, chân thật, đúng đắn và là phương thuốc cho mọi căn bệnh. Chúng vượt khỏi mọi
so sánh.
Tencho
Nghĩa đen của từ tencho trong tiếng Tạng [tiếng Phạn là
shastra] là “chỉ ra và chuyển hóa.” Khi bạn được chỉ ra rõ ràng cách thức mọi
thứ thực sự là, tâm bạn được chuyển hóa. Sự ngu dốt chuyển hóa thành giác tánh,
tiêu cực thành tích cực. Vì thế, mục đích của tencho là chuyển hóa tinh tế tâm của đệ tử, và kết quả của tencho là bạn được bảo vệ khỏi những cõi
thấp hơn.
Tencho được viết bởi các học giả. Về Luận, người ta nói rằng bảy bậc
trưởng lão chứng ngộ từ truyền thống Tiểu thừa gặp nhau và biên soạn bản shastra đầu tiên, Chedrak Shedzo Chenmo. Để được phép biên soạn một shastra, học giả, ít nhất cần phải hiểu
năm ngành khoa học chính và năm ngành phụ.
Năm ngành chính gồm nghệ
thuật, y học, ngôn ngữ, logic và triết học nội tâm.
Năm ngành phụ gồm đồng
nghĩa, toán học, biểu diễn, thơ ca và biên soạn.
Chỉ người hiểu những
ngành này mới có thể biên soạn luận giải về giáo lý Phật Đà. Bên cạnh đó, để có
thể biên soạn một bản shastra, họ ít
nhất phải chứng ngộ địa thứ nhất hay có thể giao tiếp với Bổn tôn, chẳng hạn Đức
Văn Thù. Một cách lý tưởng, tác giả cần trực tiếp trải nghiệm dharmata, chân lý.
Có khoảng một trăm bản ka (Kangyur)
bằng tiếng Tạng và khoảng hai trăm bản tencho
(Tengyur). Tất cả các bản tencho được viết bởi các đại học giả, những
bậc uyên bác mọi ngành khoa học chính và phụ.
3. TĂNG
Những bậc với ý định thiện lành
Những bậc nghiên cứu,
quán chiếu và thiền định về giáo lý của Đức Phật, và ý định được đặt trên con
đường Pháp và giác ngộ được gọi là Tăng [tiếng Tạng là gendun, tiếng Phạn là Sangha].
Từ Sangha nghĩa đen là “những bậc với
ý định thiện lành.”
Có hai kiểu đức hạnh: đức
hạnh hướng về các hành động trong thế giới này, và đức hạnh tuyệt đối của việc
thành tựu Chánh giác.
Quy y Tam Bảo
Những người bình thường
bị lạc trong sự chăm sóc và bảo vệ cái tôi và trong các cảm xúc phiền não. Dù
đau đớn nào được gây ra bởi việc chăm sóc và bảo vệ cái tôi, đó là cách mà họ sống.
Dù họ cố gắng nhiều lần, thái độ này không thể làm họ hạnh phúc hơn, và không
giải thoát họ khỏi khổ đau.
Gần như không thể với
người thường để hiểu được rằng khả năng của việc buông bỏ cái tôi và làm giảm
khổ đau, căng thẳng và hận thù mà chúng ta cảm thấy bên trong, có thể xuất hiện.
Nó như thể bạn chắc hẳn rất điên rồ khi đề xuất như vậy. Tuy nhiên, mặt khác, rất
rõ ràng là việc nuôi dưỡng và bảo vệ cái tôi là nguồn gốc của mọi khổ đau.
Bởi vậy, con đường của bạn
và con đường của chúng sinh thông thường trở nên khá khác biệt. Mặc dù bạn sống
như một thành viên trong gia đình và chăm sóc từng thành viên, bạn vẫn nhận thấy
bạn đang trở nên khác biệt với phần còn lại. Mặc dù bạn có thể kết hôn và đã thề
sống với vợ/chồng, và mặc dù yêu thương và chăm sóc vẫn còn, bởi bạn làm việc với
tâm, bạn sẽ nhận ra khoảng cách giữa bạn với vợ/chồng ngày càng lớn.
Sự tách biệt này không dựa
trên kiểu thành kiến vào với bạn đời. Nó là kết quả của sự thấu suốt tăng lên
mà bạn sở hữu như là kết quả của việc giải quyết vấn đề tâm. Trí tuệ bạn đang
vun bồi nhìn ra không chỉ vấn đề của người khác mà còn cả vấn đề của bạn. Điều
này liên quan đến việc nhìn ra cái khổ trong cuộc đời, và đâm thủng nguyên nhân
của nó, thứ đang bám chấp vào cái tôi.
Chúng ta mong muốn làm
việc với các vấn đề tâm lý và cảm xúc bằng cách áp dụng chánh Pháp. Vì thế,
chúng ta nhận Đức Phật là người chỉ dẫn và Pháp là con đường, và chúng ta trở
thành một phần của Tăng đoàn cao quý.
Mặc dù tình yêu thương,
sự chăm sóc và từ bi giành cho người khác tăng lên, và chúng ta vẫn muốn có ích
với người khác hơn nữa, con đường của ta trở nên rõ ràng hơn. Vì thế, chúng ta
quy y Tam Bảo một cách đúng đắn hơn. Đây là mục đích của việc nghiên cứu và thực
hành của chúng ta; quy y một cách đúng đắn, không phải chỉ là nghi lễ. Chúng ta
không quy y chỉ để đi theo người khác, mà để phát triển mối quan hệ cá nhân với
các đối tượng quy y. Một cách tương đối, chúng ta quy Phật là người chỉ đường,
Pháp là con đường và Tăng là những người đồng hành. Một cách tuyệt đối, chỉ có
một sự quy y duy nhất, đó là giác ngộ.
Trích: Nghiên cứu Phật học
1, Dzigar Kongtrul Rinpoche
Việt dịch: Nhóm Thuận
Duyên.
(CÙNG DỊCH GỈA)
[1]
Mười hai hành động gồm: an trú trong Tushita, giáng sinh và nhập vào tử cung,
chào đời, tinh thông nghệ thuật, tận hưởng phối ngẫu, từ bỏ thế giới, thực hành
khổ hạnh, đạt đến điểm quan trọng của giác ngộ, chinh phục Ma vương, giác ngộ
hoàn hảo, chuyển bánh xe giáo Pháp và thị hiện Niết Bàn cuối cùng. Xem Truyền
thống Nyingma của Phật giáo Tây Tạng, quyển II, trang 169, Dudjom
Rinpoche.
[2]
Các thế lực ma quỷ trong cõi địa ngục.
[3]
Xem Kho
tàng các phẩm tánh quý giá, Phụ lục 5.
[4]
Bốn sự vô úy là (1) Vô úy trong kiến thức của tất thảy mọi vật; (2) Vô úy trong
kiến thức của sự ngừng mọi lỗi lầm; (3) Vô úy để tuyên bố dứt khoát rằng các hiện
tượng ngăn cản con đường không trở thành thứ gì khác; (4) Vô úy rằng con đường
từ bỏ nhờ đó mọi đặc tính hoàn hảo sẽ đạt được, vừa được chứng ngộ.