Từng nghe : cửa yếu vào Đạo lấy sự phát tâm đứng hàng
đầu, việc cấp thiết tu hành lấy sự lập nguyện làm bước trước. Nguyện có
lập thì chúng sanh mới độ nổi, tâm có phát thì Đạo mới tựu thành. Nếu
tâm rộng lớn không phát , nguyện kiên cố không lập, thì dù trải qua trăm
kiếp ngàn đời, vẫn cứ quanh quẩn trong vòng luân hồi mãi mãi. Dù có gia
công tu hành, cũng chỉ nhọc công vô ích, đắng cay vẫn hoàn đắng cay.
Cho nên Kinh Hoa Nghiêm nói: Quên mất tâm Bồ đề mà tu hành các thiện
pháp , gọi là hành động của ma. Quên mất mà còn như thế, huống nữa là
chưa phát? Cho nên biết rằng, muốn học Đạo Như Lai trước hết phải phát
nguyện Bồ đề , không thể hoãn lại được.Nhưng tâm nguyện có nhiều tướng
khác nhau, nếu không trình bày, biết đâu mà hướng tới? Nay vì đại chúng,
xin nói tóm lược. Tướng trạng tâm nguyện có tám, đó là: tà, chánh,
chân, nguỵ, đại, tiểu, thiên, viên.Đời có người tu, sau khi vào chùa
chẳng xét tâm mình, chuyên lo ngoại vụ. Hoặc cầu sướng thân, hoặc ham
nổi tiếng, hoặc ưa thích dục lạc thế gian, hoặc cầu mong quả vui mai
hậu. Phát tâm như thế đích thị là tà.Danh lợi không ham, quả vui chẳng
thiết, chỉ mong giải thoát, đạt Đạo Bồ đề, Phát tâm như thế được gọi là
chánh.Niệm niệm liên tục, ngước lên thì cầu Phật đạo, cúi xuống thì độ
chúng sanh. Nghe Phật đạo cao siêu, không sanh sầu lo thoái chí, thấy
chúng sanh khó độ không sanh mệt mỏi sờn lòng. Như trèo núi cao muôn
trượng, quyết lên thấu đỉnh, như leo tháp lớn chín tầng, phải leo tận
nóc. Phát tâm như thế được gọi là chân.Có tội không sám hối, có lỗi
không dứt trừ, ngoài sạch trong dơ, trước siêng sau nhác. Tâm tuy tốt
đấy nhưng phần lớn bị danh lợi giao xen, pháp tuy hay đấy nhưng oan uổng
bị vọng nghiệp nhuốm bẩn. Phát tâm như thế đích thị là ngụy.Cõi chúng
sanh hết, nguyện ta mới hết, Đạo Bồ đề thành, nguyện ta mới thành. Phát
tâm như thế mới gọi là đại.Xem ba cõi như lao ngục, nhìn sanh tử như oan
gia. Chỉ mong tự độ, không muốn độ người. Phát tâm như thế đích thị là
tiểu.Ngoài tâm nếu thấy có chúng sanh cần độ, có Phật đạo mong thành,
công phu không xả, thấy biết không tan. Phát tâm như thế đích thị là
thiên.Nếu biết tự tánh là chúng sanh , nên nguyện độ thoát, tự tánh là
Phật đạo, nên nguyện tu hành. Đem tâm hư không , phát nguyện hư không,
tu hạnh hư không , chứng qủa hư không , cũng không có tướng hư không có
thể chứng đắc. Phát tâm như thế được gọi là viên.Biết được tám tướng
khác nhau trên đây là biết cứu xét. Biết cứu xét là biết lấy bỏ. Biết
lấy bỏ là biết Phát tâm .Cứu xét như thế nào? Cứu xét tâm mình phát ra
so với tám tứơng nói trên : Là chánh, là tà, là chân , là nguỵ, là đại,
là tiểu, là thiên hay viên.Lấy bỏ thế nào? Bỏ tà, bỏ nguỵ, bỏ tiểu ,bỏ
thiên. Lấy chánh, lấy chân , lấy đại , lấy viên. Phát tâm như thế mới
gọi là chân chánh Phát tâm Bồ đề .Tâm Bồ đề này là pháp lành hàng đầu
trong các pháp lành, phát khởi được tâm ấy hẳn phải có nhân duyên. Nhân
duyên phát khởi lược tóm có mười: Một là nhớ nghĩ ơn nặng của Phật, Hai
là nhớ nghĩ công ơn cha mẹ, Ba là nhớ nghĩ công ơn sư trưởng, Bốn là nhớ
nghĩ công ơn thí chủ, Năm là nhớ nghĩ công ơn chúng sanh , Sáu là nhớ
nghĩ khổ đau sinh tử, Bảy là tôn trọng tánh linh của mình, Tám là sám
hối nghiệp chướng đã gây, Chín là nguyện cầu vãng sanh Tịnh độ, Mười là
làm cho chánh pháp tồn tại lâu dài.
THẾ NÀO LÀ NHỚ NGHĨ ƠN NẶNG CỦA PHẬT ?
Đức
Thế Tôn Thích Ca Như Lai chúng ta, khi mới phát Tâm, vì tất cả chúng ta
mà tu hạnh Bồ tát, trải qua vô lượng kiếp, nếm đủ mọi mùi cay đắng gian
lao. Khi ta gây nghiệp, Ngài rất xót xa, tìm cách giáo hóa, nhưng ta u
mê chẳng chịu nghe. Ta đọa địa ngục, Ngài càng xót đau hơn, muốn thay ta
chịu khổ, nhưng nghiệp ta quá nặng cứu vớt thật vô phương. Ta sinh cõi
người, Ngài dùng phương tiện giúp ta trồng gieo căn lành. Đời đời kiếp
kiếp Ngài theo dõi ta, không lúc nào bỏ. Khi Ngài xuất thế, ta còn đắm
chìm, nay được làm người thì Phật đã diệt..Tội lỗi gì khiến ta sinh vào
thời mạt pháp, phước đức nào đưa ta vào hàng ngũ xuất gia ? Nghiệp
chướng khiến ta không được thấy thân vàng của Phật, may mắn nào xui ta
được cung chiêm xá lợi của Ngài ? Suy nghĩ như thế thì mới vỡ lẽ : Giả
sử quá khứ ta không trồng thiện căn, thì sao hôm nay được nghe Phật pháp
? Không nghe Phật pháp thì làm sao biết mình thường thọ Phật ân ? Ân
đức ấy non cao khó sánh, trừ khi tự mình phát tâm rộng lớn, hành Đạo Bồ
tát, xây dựng pháp tràng, cứu độ chúng sanh, dù cho thịt nát xương tan
cũng khó mà đền đáp cho xứng. Đó là nhân duyên thứ nhất của sự phát tâm
Bồ đề .
THẾ NÀO LÀ NHỚ NGHĨ CÔNG ƠN CHA MẸ ?
Thương thay cha mẹ,
sinh ta nhọc nhằn. Mười tháng cưu mang, ba năm bú mớm, bên ướt mẹ nằm,
bên ráo con lăn, ngậm đắng nuốt cay, ngọt bùi chẳng tưởng. Khổ công
nhường ấy, ta mới thành người. Hy vọng về sau, tiếp nối gia phong, lo
phần tế tự. Vậy mà nay ta lại đi xuất gia, lạm xưng Thích tử, nhục hiệu
Sa môn. Ngọt bùi không cung cấp, giỗ chạp chẳng thừa tương. Lúc còn sống
ta đã không chu toàn được miếng cơm manh áo. Khi chết rồi ta lại chẳng
đủ sức tiếp dẫn giác linh. Đối với thế gian ta là kẻ ăn hại, về mặt xuất
thế ta cũng chẳng được ích chi. Hai đường đều mất tội nặng khó thoát.
Suy nghĩ như thế thì chỉ còn một cách là thường hành Phật đạo trong trăm
kiếp ngàn đời, độ khắp chúng sinh trong mười phương ba cõi. Như vậy
không những cha mẹ một đời, mà cha mẹ nhiều kiếp đều được siêu thăng,
không những cha mẹ một người mà cha mẹ của tất cả đều được cứu vớt. Đó
là nhân duyên thứ hai của sự phát tâm Bồ đề .
THẾ NÀO LÀ NHỚ NGHĨ CÔNG ƠN SƯ TRƯỞNG ?
Cha
mẹ ta tuy sinh ra ta và nuôi ta khôn lớn, nhưng nếu không có sư trưởng
thế gian thì lễ nghĩa không biết, không có sư trưởng xuất thế thì Phật
pháp không hay. Không biết lễ nghĩa khác gì cầm thú, không tin Phật pháp
tương đồng người phàm. Chúng ta ngày nay Phật pháp có hiểu sơ qua, lễ
nghĩa có biết tạm đủ. Thân phủ cà sa, mình đượm giới phẩm. Công ơn lớn
ấy chính nhờ sư trưởng mà có. Nếu cầu quả nhỏ chỉ được lợi mình, nay
theo đại thừa, nguyện đem lợi lạc đến khắp quần sanh, thì sư trưởng thế
gian và sư trưởng xuất thế, cả hai đều được lợi ích, do ta cung hiến. Đó
là nhân duyên thứ ba của sự phát tâm Bồ đề .
THẾ NÀO LÀ NHỚ NGHĨ CÔNG ƠN THÍ CHỦ ?
Chúng
ta ngày nay, nhu dụng hàng ngày chẳng phải do ta tự cấp. Cháo cơm ba
bữa, quần áo bốn mùa, thuốc men trị bệnh, chi phí linh tinh, hết thảy
đều do sức lực kẻ khác làm ra, mang đén cho ta chi dùng. Họ thì dốc sức
cày cấy, bụng chẳng đủ no, ta thì ngồi không an hưởng, lòng vẫn chưa
thõa. Họ thì dệt đan không ngừng tay mà suốt đời gian khổ, ta thì may
mặc đến thừa mứa mà đâu biết tiếc thương. Họ thì nhà tranh cửa lá, nghèo
khổ suốt đời, ta thì sân rộng nhà dài, thong thả quanh năm. Đem sức lao
nhọc của họ để cung cấp cho cái sống an nhàn của ta, lòng sao yên đựơc,
lấy cái lợi của người để bồi dưởng thân ta sung sướng, lý có thuận
không? Nếu chẳng phải mình vận dụng hai đức Bi –Trí, trang nghiêm hai
quả Phước-Tuệ, để tín thí nhờ ơn, chúng sanh thọ sủng, thì dù gạo chỉ
một hột, vải chỉ một ô, mà mình đã thọ cúng trước kia, đến nay đều phải
trả đủ, không thì ác báo khó trốn. Đó là nhân duyên thứ tư của sự phát
tâm Bồ đề .
THẾ NÀO LÀ NHỚ NGHĨ CÔNG ƠN CHÚNG SANH ?
Ta với chúng
sinh, từ bao kiếp trước, hết đời nọ qua đời kia, từng làm cha mẹ của
nhau, ơn nghĩa qua lại, nhiều lớp nhiều tầng. Nay vì cách đời, cho nên
hôn mê không nhận ra nhau, cứ lý mà suy, há không đền đáp. Nay là loài
mang lông đội sừng (1), biết đâu xưa kia không là con ta? Nay là loài bò
bay máy cựa (2), biết đâu xưa kia chẳng là cha mẹ ta?. Thường thấy bao
kẻ, trẻ lìa gia đình, lúc lớn trở về, dung mạo đổi khác, không thể nhận
ra. Huống nữa cha mẹ ta đời trước, ngày nay, kẻ họ Trương, người họ
Vương, làm sao nhớ được?. Họ đang gào thét trong địa ngục, hoặc đang
ngất ngư trong chốn ngạ quỉ, khổ đau ai biết, đói khát kêu ai?. Ta tuy
không thấy không nghe, họ hẳn xin cứu vớt. Nếu chẳng phải kinh không đâu
nói rành việc ấy, nếu chẳng phải Phật không ai tả rõ cảnh này. hạng
người tà kiến làm sao biết nổi! Cho nên Bồ tát nhìn sâu kiến thấy toàn
cha mẹ quá khứ, và Chư Phật vị lai thường nghĩ cách giúp đỡ để báo đền
ơn. Đó là nhân duyên thứ năm của sự phát tâm Bồ đề.
THẾ NÀO LÀ NHỚ NGHĨ KHỔ ĐAU SINH TỬ ?
Ta
cùng chúng sinh từ bao kiếp trước, sinh tử quẩn quanh, chưa hề thoát
khỏi. Khi ở cõi trời, lúc sanh cõi người, nơi kia chốn nọ, vào ra muôn
mối, lên xuống nửa giây. Thoắt đâu làm trời, thoắt đâu làm người, thoắt
đâu chui vào địa ngục ngạ quỷ súc sanh. Cổng đen sáng ra chiều vào, hang
sắt mới khép đã mở. Leo lên núi dao thì không còn mảnh da ngyuên vẹn,
vịn vào cây kiếm thì các ô thịt đều bị rách tươm. Hoàn sắt nóng không
trừ được đói, nuốt vào rồi gan ruột nát tan, nước đồng sôi không giải
được khát, uống vào rồi thịt xương nhừ ngấu. Cưa bén xẻ thây, đứt xong
liền nối, gió nghiệp thổi mặt , chết rồi lại sanh.Trong thành rực lửa,
thảm thê tiếng hét rú lên, trên bàn ngào nướng, tê tái tiếng gào vang
vọng. Băng giá đông lại thì thân hình xanh như sen xanh kết nhuỵ, máu
thịt rửa ra thì mình mẩy đỏ tựa sen đỏ trổ hoa. Trong chốn địa ngục một
đêm chết sống kể cả vạn lần, so với nhân gian một buổi thọ hình lâu tròn
thế kỷ. Bao phen linh ngục ra tay nhọc mệt, nào ai chịu tin lời Diêm
chúa răn khuyên, lúc thọ báo mới kêu van khổ, nhưng dù hối cũng chẳng
kịp nào, khi thoát rồi thì vội quên ngay, vẫn nghiệp cũ lại gây như
trước. Đánh lừa văng máu đâu hay chính mẹ mình đang khóc thảm, xua heo
vào lò đâu còn như thế, ăn thịt cha mà chẳng hay, phàm phu cũng thế
thôi. Năm xưa ân ái nay thành oan gia, hôm qua oán cừu nay thành ruột
thịt. Đời trước là mẹ mà nay là vợ, thuở xưa là cha nay lại là chồng.
Lấy trí túc mạng mà soi thì đáng hổ thẹn biết mấy, lấy mắt thiên nhãn mà
nhìn thì đáng chán đáng cười biết bao! Trong bụng đầy phẫn, mười tháng
rúc chui, hết còn chịu nổi, qua đường ngập máu, một phen chúi xuống,
thương thật là thương! Nhỏ dại biết chi, mô tê chẳng rõ,lớn khôn dần
hiểu, tham dục bèn sanh. Loáng thoáng mới đó mà già đau đã tới kiếm,
thình lình xuất hiện gã vô thường lại hỏi thăm, gió lửa trong lúc giao
tranh, thần thức tơi bời rối loạn. Khí huyết bên trong vơi cạn, xương
thịt bên ngoài teo khô. Không một kẽ chân lông nào không bị kim đâm,
không một nơi khiếu huyệt nào không bị dao cắt. Rùa già đem nấu, lột
được vỏ ra, tưởng e còn dễ, thần thức sắp đi, phải lìa khỏi xác, khó gấp
bội phần. Tâm là ông chủ vô thường, giống chú lái buôn bôn tẩu, thân là
cái hình vô định, khác nào phòng ốc rày đổi mai thay. Chỉ như mảy bụi ở
cõi ba ngàn, thân nọ quay cuồng qua lại vô tận kể sao cho xiết! Cao quá
núi cao chất ngất xương chồng, dày hơn đất dày, rậm rịt thây sắp. Giả
sử không được nghe lời Phật, lý đó ai hay ai biết? Vậy mà có kẻ vẫn tham
luyến như xưa, si mê không bỏ. Chỉn e ngàn đời muôn kiếp mới được làm
người, một lầm hai lỡ rây rưa trăm kiếp. Thân người khó được mà dễ mất,
vận may dễ qua mà khó tìm. Đường đời mù mịt , ly biệt dài lâu. Ác báo ba
đường, rồi phải tự thọ. Khổ hết chỗ nói, ai chịu thay đây? Nhân hứng mà
nói dông dài, đến đây không thể không thấy lòng mình giá buốt. Cho nên
phải dứt lòng sanh tử, vượt nẻo ái hà, mình người cùng thoát, bờ giác
cùng lên. Công lao muôn kiếp, chính được bắt đầu từ hôm nay. Đó là nhân
duyên thứ sáu của sự Phát tâm Bồ đề .THẾ NÀO LÀ TÔN TRỌNG TÂM LINH CỦA
MÌNH?
Tâm của chúng ta trong hiện tiền, so với Đức Thế Tôn Thích Ca,
không hai không khác. Thế thì vì sao, Thế Tôn đã thành Chánh giác từ vô
lượng kiếp, còn chúng ta thì điên đảo hôn mê vẫn làm phàm phu? Lại nữa,
Thế Tôn thì đủ vô lượng thần thông trí huệ, công đức trang nghiêm, còn
chúng ta thì chỉ có vô lượng phiền não, nghiệp chướng, sanh tử buộc
chặt. Tâm tánh chỉ một mà mê ngộ trời vực cách xa. Cứ im lặng mà suy, há
chẳng đáng xấu hổ sao? Ví như ngọc báu vô giá, rơi xuống bùn dơ, xem
đồng gạch ngói, chẳng được quý yêu. Cho nên phải dùng vô lượng thiện
pháp, mà đối trị vô lượng phiền não. Có gia công tu đức thì tánh đức mới
sáng ra. Như ngọc báu được lau chùi, treo trên phướn cao, ánh sáng rực
chiếu, che lấp tất cả. Thế mới đáng gọi là không phụ sự giáo hoá của
Phật, chẳng phụ tánh linh của mình. Đó là nhân duyên thứ bảy của sự phát
tâm Bồ đề.
THẾ NÀO LÀ SÁM HỐI NGHIỆP CHƯỚNG?
Kinh dạy, phạm một
cát la (3) , bị đoạ địa ngục, lâu bằng năm trăm tuổi thọ của trời Tứ
thiên vương. Cát la tội nhỏ mà còn như thế, huống nữa tội nặng, báo lớn
đến đâu? Chúng ta ngày nay trong nếp sống, nhứt cử nhứt động thường trái
luật Phật! Khi ăn lúc uống phạm giới bao phen. Kể cả các vi phạm trong
một ngày cũng đã vô lượng, huống nữa trọn đời nhiều kếp, tội lỗi gây ra,
khó mà nói hết. Chỉ lấy riêng ngũ giới, cứ mười người giữ đã hết chín
người phạm, phát lộ thì ít ém nhẹm thì nhiều. Ngũ giới là giới tại gia,
mà còn không giữ nổi, huống nữa các giới Sa-di,Tỳ-kheo, Bồ Tát, thôi
khỏi bàn chi! Hỏi đến danh nghĩa thì ta đây tỳ kheo, hỏi về thực chất
thì chưa xứng để làm một tại gia đệ tử. Há chẳng đáng hổ thẹn sao? Nên
biết rằng giới Phật đã không thọ thì thôi, đã thọ thì không được huỷ
phạm, không phạm thì thôi, đã phạm thì khó tránh đoạ sa. Nếu không vì
xót mình thương người, mà miệng van lơn, thân quỳ lạy, khóc lóc thảm
thiết, cùng với chúng sanh , cầu xin sám hối, thì dù ngàn đời muôn kiếp
ác báo khó bề tránh khỏi. Đó là nhân duyên thứ tám của sự phát tâm Bồ
đề.
THẾ NÀO LÀ CẦU SANH TỊNH ĐỘ?
Tu ở cõi này sự tiến đạo qúa khó,
nhưng vãng sanh cõi kia, việc thành Phật cũng dễ thôi. Dễ cho nên mmột
đời có thể đạt được, khó cho nên muôn kiếp chưa chắc tựu thành. Vì vậy
mà Thánh hiền đời trước, ai ai cũng thú hướng về đây, ngàn kinh muôn
luận, đâu đâu cũng giãi bày nghĩa này. Việc tu hành trong đời mạt pháp,
không pháp nào hơn được pháp ấy. Song lẽ trong kinh còn chứa thêm: Điều
lành nhỏ khó khiến sanh lên, phước đức dày mới đưa đến đó, mà nói phước
đức dày, thì không chi bằng chấp trì danh hiệu, nói điều lành nhiều thì
phát tâm rộng lớn chiếm ưu tiên. Cho nên chấp trì danh hiệu trong chốc
lát, hơn hẳn công đức bố thí cả trăm năm, phát được tâm Bồ đề rộng lớn,
vượt trội công đức tu hành trong nhiều kiếp. Bởi vậy niệm Phật là mong
được làm Phật, nếu tâm lớn không phát thì niệm cũng chẳng ích chi. Phát
tâm là nhằm mục đích tu, nếu Tịnh độ không sanh thì tuy có phát nhưng
cũng dễ thối. Thế thì gieo giống Bồ đề, phải cày bằng cày niệm Phật, đạo
quả tự nhiên tăng trưởng, cưỡi thuyền đại nguyện, vào được biển lớn
Tịnh độ, Tây phương quyết định vãng sanh. Đó là nhân duyên thứ chín của
sự phát tâm Bồ đề.
THẾ NÀO LÀ LÀM CHO CHÁNH PHÁP TỒN TẠI LÂU DÀI?
Thế
Tôn chúng ta từ vô lượng kiếp, vì tất cả chúng ta, mà tu đạo Bồ đề.
Ngài làm được việc khó làm, nhẫn được việc khó nhẫn. Cho nên khi nhân
tròn quả đủ, Ngài mới thành Phật. Sau khi thành Phật, giáo hoá hoàn tất,
Ngài vào Niết bàn. Nay thì chánh pháp tượng pháp đã qua, chúng ta đang ở
trong đời mạt pháp, Phật pháp còn đó mà không người tu hành. Tà chánh
lộn xộn, phải trái khó phân, ganh đua nhân ngã, toàn phường lợi danh,
ngước mắt nhìn quanh mọi người đều vậy chẳng ai thoát khỏi. Mịt mù chẳng
biết Phật là ông nào? Pháp nghĩa ra sao? Tăng là cái gì? Suy tàn đến
thế nói ra bất nhẫn, nhưng mỗi khi nghĩ đến bất giác lệ tuôn, ta là con
Phật mà không thể đền đáp công ơn Phật?, trong không ích cho mình, ngoài
chẳng ích cho người, sống không ích cho đương thời, chết chẳng ích cho
hậu thế. Trời tuy cao không che nổi ta, đất tuy dày không che nổi ta,
cái đứa cực ác, không ta thì ai? Do đó lòng đau không thể chịu nổi, mà
toan tính thì cũng chẳng đề xuất được kế gì. Bỗng nhiên vụt quên rằng
mình quê mùa, vụt phát tâm chí rộng lớn. Tuy chưa thể vãn hồi mạt vận
ngay trong lúc này, nhưng quyết định phải hộ trì được chánh pháp mai
sau. Cho nên cùng các thiện hữu dắt nhau đến đạo tràng, soạn thuật sám
pháp, lập pháp hội này. Phát bốn mươi tám đại nguyện, nguyện nào cũng
nhằm hoá độ chúng sanh, cầu trăm ngàn kiếp thâm tâm, tâm nào cũng hướng
tiêu đích làm Phật. Kể từ hôm nay cho đến tận cùng đời vị lai, phải
thanh toán cho xong cái hình hài này, và thề quyết phải sanh về an
dưỡng. Sau khi lên xong chín phẩm lại lui về Ta bà. Mặt trời Phật pháp
sẽ được sáng lại, cửa vào chánh pháp được mở toang. Biển lòng tăng giới
lặng trong, ở cõi này nhân dân đông độ được tiếp hoá ngay tại chỗ. Vận
hội nhờ đó mà kéo dài ra thêm, chánh pháp nhờ đó mà tồn tại lâu dài. Đây
là tâm nguyện chân thành, từng được thiết tha ấp ủ. Đó là nhân duyên
thứ mười của sự phát tâm Bồ đề.
Như vậy là mười nhân duyên đã hết,
tám tướng đã rõ, thú hướng có lối, khai phát có nơi. Chúng ta đã được
làm người, được ở đất có văn hoá, sáu căn không thiếu, cơ thể khoẻ mạnh,
đầy đủ tín tâm, may mắn không gặp ma chướng, huống nữa còn được xuất
gia, được gặp đạo tràng, được thọ cụ túc, được thờ xá lợi, được tu sám
pháp, được gặp bạn lành, được đủ duyên may. Như thế mà nếu hôm nay không
chịu phát tâm rộng lớn thì đợi đến bao giờ? Cúi xin đại chúng xót đau
cho tấm lòng thành ngu muội của tôi, tiếc thương cho cái chí nguyện khổ
sở của tôi, để cùng nhau cùng lập nguyện ấy, cùng phát tâm này. Ai chưa
phát thì nay phát, ai phát rồi thì kích thích tăng trưởng, ai tăng
trưởng rồi thì nay cứ tiếp tục, đừng sợ khó mà sợ hãi lùi bước, đừng cho
dễ mà khinh thường, đừng ham mau mà không giữ được bền lâu, đừng lười
nhác mà mất dõng mãnh, đừng rụt rè mà giảm khí thế đang lên, đừng chần
chừ mà hẹn rày hẹn mai, đừng tự cho mình ngu mà buông thả tất cả, đừng
vì căn cơ chậm lụt mà tự ty rằng mình không được dự phần. Ví như trồng
cây, trồng lâu thì rễ càng ngày càng ăn sâu. Lại ví như mài dao, mài
hoài thì dao dùi cũng phải bén. Chớ nên vì cạn mà không trồng, để mặc
cho cây khô héo, hay vì dùi mà không mài, để mặc cho dao sét rỉ, thành
vật vô dụng. Lại nữa, nếu bảo tu là khổ, thì lười lại càng khổ, tu thì
chỉ khó nhọc nhứt thời mà an vui vĩnh viễn, lười thì tạm thong thả một
đời mà chịu khổ muôn kiếp. Huống nữa, lấy pháp môn Tịnh độ làm tàu
thuyền thì lo gì thối chuyển, lại thêm có trí tuệ vô sanh làm sức đẩy
thì ngại gì gian nan. Nên biết tôi nhân ở địa ngục mà còn phát tâm Bồ đề
từ kiếp trước, huống nữa con Phật trong nhân luân há lại không lập đại
nguyện ngay trong đời này!Vì hôn mê từ bao kiếp trước, những gì qua rồi
thì không thể cản ngăn, nhưng ngày nay đã tĩnh ngộ, những gì sắp đến còn
có thể đón bắt. Nhưng mê mà tỉnh đương nhiên là việc đáng thương, còn
biết mà không làm thì mới thật là điều đáng tiếc. Nếu sợ cái khổ địa
ngục thì tinh tấn tự sanh, nếu nghĩ cái chết gần kề thì lười nhác không
dấy.Lại nữa, phải lấy Phật pháp làm roi giục, lấy bạn lành làm tay dắt,
vội mấy cũng không rời, trọn đời bám chặt. Như vậy thì không còn lo gì
thối chuyển nữa. Chớ bảo rằng một niệm chẳng đi đến đâu, đừng cho rằng
niệm rỗng chẳng có ích gì. Tâm chân thì sự việc thật, nguyện rộng thì
công hạnh sâu xa. Hư không đâu có lớn, cái tâm mới là lớn, kim cương đâu
có rắn, sức nguyện mới thật rắn.Nếu đại chúng thật tâm, không vứt bỏ
lời tôi, thì quyến thuộc Bồ đề từ đây kết hợp, liên minh sen vàng từ đay
tương giao.NGUYỆN RẰNG:Cùng sanh Tịnh độCùng thấy Di đàCùng độ chúng
sanhCùng thành Chánh giác.Biết đâu ba mươi hai tướng tốt và trăm phước
trang nghiêm sau này, chẳng phải bắt đầu từ buổi lập nguyện hôm nay !
Nguyện cùng đại chúng cùng nhau gắng sức . ./.