Vườn mai của cụ Nguyễn Ngọc Quỳnh thừa hưởng của cha
một danh sĩ nổi tiếng quanh vùng năm đầu thế kỷ, vừa dạy học vừa chữa
thuốc chuyên trị những bệnh nan y.
Xuất xứ của vườn mai theo lời kể của chủ nhân do nhà sư pháp danh
Tăng Cang tặng giống để tạ ơn được chữa khỏi bệnh trọng. Đó là một giống
mai của nhà chùa chiết tặng, từ một cây đã nhân giống lên hàng trăm cây
để lưu giữ. Giống mai quí bởi nở từng chùm hai trái ta gọi là "song
mai" khác với các cây mai ở chùa Hương cho một trái. Vườn mai của gia
đình cụ Quỳnh ở thôn Đông Mỹ nên mọi người đặt tên là vườn mai Đông Mỹ
xã Ngọc Hồi.
Giới anh em văn nghệ Hà Nội có lẽ không ai là không biết, không đặt
chân một lần tới vườn mai quí Đông Mỹ để thưởng thức một loài hoa đã đi
vào thơ phương Đông. Ví như "Thánh Quát" nhà thơ họ Cao người Thăng Long
ở làng Phú Thị bên kia sông Hồng đã tôn mai với hai câu thơ chữ Hán:
"Thập tải luân giao cầu cổ kiếm
Nhất sinh đê thủ bái mai hoa"
Tôi xin phép phỏng dịch:
" Mười năm bạn hiếm như gươm báu
Một đời riêng phục có hoa mai"
Ảnh minh họa. trunghocnguyenbatong.com |
Hoa mai được các nhà thơ phương Đông từ đời Tống, đời Đường và ở ta
từ đời Trần, đời Lê đều lấy làm biểu tượng của tâm hồn cao thượng thanh
khiết, một cốt cách mang tính đặc trưng của kẻ sĩ phương Đông. Với dáng
đứng mà chỉ loài mai mới có: quắc thước, đầy góc cạnh, không nhẵn nhụi
phẳng phiu mà gân guốc xù xì, vỏ cây lốm đốm màu rêu phong cổ kính.
Ngày ấy thời chống Mỹ ở Hà Nội, khu tập thể Nguyễn Công Trứ tôi ở
hình thành một nhóm anh em làm báo chí, văn học, nghiên cứu do hợp tính
tình và trọng nhau nhân cách, tìm đến nhau đi lại gặp gỡ bàn luận trao
đổi chuyện văn chương. Căn gác tầng ba nhà H1 tôi ở được coi như nơi hội
tụ. Những người anh lớn, những người bạn vong niên như nhà báo Phùng
Bảo Thạch (cùng thế hệ làm báo với Hoàng Tích Chu, Vũ Trọng Phụng, Vũ
Bằng...) thường không đến một mình mà rủ thêm nhạc sĩ Nguyễn Xuân Khoát,
nhà sử học Đào Duy Anh, kiến trúc sư Nguyễn Cao Luyện cùng đến ngồi xếp
bằng tròn trên chiếu căn gác của tôi.
Đã thành thông lệ vào mùa đông hàng năm, nghệ sĩ nhiếp ảnh Võ An Ninh
cùng nhà nghiên cứu Đào Phan, nhà báo Lê Bách tự "phân công" theo dõi
tiết "đại hàn" trên lịch, có nhiệm vụ "tiền trạm" đạp xe xuống vườn mai
Đông Mỹ gặp cụ Quỳnh, ấn định ngày tổ chức cho anh em xuống "ngủ dưới
mai". Nhóm chúng tôi được chủ nhân cho dựng một lều cỏ, một lán tranh ở
giữa vườn để mùa hoa xuống ngủ lại đêm.
Giống như sen "tịnh đế" một cuống nở hai bông, mai quí vườn Đông Mỹ
dài hoa có hai nhị cái, Lúc hoa mới đơm thì hai nhị cái chụm đầu vào
nhau sau mới tách ra làm hai. Giống mai Đông Mỹ của chính chúng ta chứ
không phải từ Trung Quốc như có người lầm tưởng. Bên Trung Quốc cũng có
"song mai" nhưng thuộc một giống khác mà họ kêu là "song thọ" cũng ra
một chùm hai trái. Chúng ta đem hoa ra đối chiếu: bông mai "song thọ" có
sáu cánh còn hoa mai vườn Đông Mỹ chúng ta chỉ có năm.
Chủ nhân- cụ Nguyễn Ngọc Quỳnh không trồng một loài cây nào khác cho
dù có thu hoạch cao mà chỉ giồng đơn thuần có mai. Chủ nhân đào ao lấy
bùn đắp đất thành gò uốn lượn, tạo cho trăm gốc mai những thế đứng khác
biệt.
Cùng với người anh họ là cụ Nguyễn Hữu Bằng, hai cụ thừa hưởng "ân
trạch" cha ông để lại, đã sáng tạo ra một "rừng mai" thu nhỏ để theo lời
hai tác giả hàng năm được đón những sĩ phu Thăng Long về kết bạn. Vào
mùa mai nở, kể cả những năm chiến tranh. Khi giặc Mỹ nhằm thủ đô làm mục
tiêu đánh phá ác liệt, còi báo động rú liên hồi, những khách "tao nhân"
vẫn không quên hẹn hò nhau kéo về vườn mai Đông Mỹ. Nhiều nhất là những
họa sĩ, những nhà nhiếp ảnh, quay phim và các văn nghệ sĩ nhiều chủng
loại.
Mùa mai vườn Đông Mỹ để lại trong tôi một ấn tượng khó quên là mùa
mai năm Hà Nội đánh thắng B52 không lực hoa kỳ. Nhóm "văn bút" xóm
Nguyễn Công Trứ chúng tôi kéo nhau xuống vườn mai cụ Nguyễn Ngọc Quỳnh
tổ chức ăn mừng chiến công lịch sử của Thăng Long vào vận hội mới. Hoa
mai năm ấy tôi có cảm tưởng sắc và hương cũng cảm thông với lòng người,
trắng khác thường và thơm kỳ lạ.
Buổi sáng dậy, trời rét già. Đứng trước một trăm cây mai cùng nở
trắng xóa cả vườn. Nhà sử học Đào Duy Anh kéo tay nhà báo Phùng Bảo
Thạch reo vui "Trời bỗng tuyết!". Ôi những bông tuyết ở đây lại ngào
ngạt một mùi hương tao nhã, tỏa rộng lan xa để khách tới thăm được "gột
rửa" tâm hồn.
Một phần tư thế kỷ đã trôi qua, những người bạn vong niên khả kính
mỗi năm một vắng bóng, những cây "lão mai" trong tôi có nhiều kỷ niệm.
Vườn mai Đông Mỹ lúc này còn không? Và tác giả "rừng mai" thu nhỏ tạo
cho các sĩ phu Thăng Long một vườn chơi tao nhã, nếu còn giờ đây đã cao
tuổi. Xin cho nhà thơ Hà Nội vào sống ẩn ở Sài Gòn, qua bài viết này cầu
chúc Nguyễn chủ nhân một tuổi già toại nguyện.
Tuần Việt Nam trân trọng giới thiệu thơ của nhà thơ Hải Như:
* VÀNG THAU
"Ngờ đâu đời thịnh bỏ tài nằm trơ"
Dịch thơ Nguyễn Trãi
Nhân cách Đào Duy Anh mãi mãi còn đây
Tôi thầm nhủ khi nghe tin anh ra đi mãi mãi
Bao giờ nữa chúng ta mới lại có một Đào Duy Anh. Cây đại thụ uyên thâm
Người khôi phục lại
Không chỉ khuôn mặt cha ông mà cốt cách tâm hồn
Tôi biết nhiều giông bão đời anh
Một chuỗi những trang buồn
Nhưng đã không để những trang buồn vây cản
Đào Duy Anh - trái tim đầy tự tin trong sáng
Chẳng đợi gặp mắt xanh anh mới hiến dâng đời
Câu thơ chữ Hán Nguyễn Trãi "Thịnh thế thùy chi hữu khí tài"
Tôi vui dịch tặng anh
Anh đón nhận với nụ cười rất trẻ
Đi bên anh tôi xin được làm đứa em nhỏ bé
Đào Duy Anh - anh không nhìn tôi "bé nhỏ" bao giờ.
Anh đã đưa đến gặp tôi khách quí - một nhà vua
Giới thiệu chúng tôi làm quen nhau
Hà Nội năm còn chống Mỹ
Người khởi xướng Thiền phái Trúc Lâm - Trần Thái Tôn thi sĩ
Qua bản dịch "Khóa hư lục" của anh sát nghĩa từng lời.
Anh đã cho thế hệ chúng tôi
Chìa khóa mở tung cánh cửa mọi chân trời
Tác giả từ điển lớp đầu tiên
Nhà ngôn ngữ học đầu tiên
Người chép sử không chịu uốn cong lịch sử
Mô hình nhân cách học giả Việt Nam trong Đào Duy Anh hội đủ
Một nhân cách còn sót lại hôm qua
Một nhân cách mới cũng bắt đầu...
Anh và tôi
Chúng tôi tin mai đời không lẫn lộn vàng thau
* CAO XUÂN HUY
Người có chìa khóa riêng mở kho báu tư tưởng phương Đông
Tựa những đích thực Người hiền
Sống và hiến dâng thầm lặng
Nhà không cao. Cửa không cao. Ghế ngồi cũng không cao
Nhưng chỗ đứng Cao Xuân Huy
Nhà đạo học chủ toàn chẳng có vật cản nào che lấp nổi
Người đến cũng như đi không xịch cửa
Đời giật mình tiếc muộn Một vì sao!
(Sài Gòn, 3/4/1996)
* Giáo sư Cao Xuân Huy, Người thầy- Nhà tư tưởng
|