Chùa Bửu Minh

NSGN - Phật giáo Việt Nam từ trước đến nay chưa từng thấy một mô hình thống kê tín đồ cụ thể nào ngoại trừ nghi thức quy y xác nhận trở thành Phật tử.


Nếu như các tôn giáo nhất thần như Thiên Chúa, Tin Lành, Hồi giáo… có phương pháp thống kê, quản lý tín đồ một cách bài bản và chặt chẽ thì nhiều tôn giáo khác như Phật giáo, Khổng giáo, Lão giáo… không mấy quan tâm đến việc xác định số lượng tín đồ và do đó việc thống kê trở nên ít khi được đề cập. Dĩ nhiên, mỗi tôn giáo có tôn chỉ và mục đích riêng nhưng việc tiếp nhận và phát triển tín đồ lại là điểm chung của mọi tôn giáo.

Phật giáo Việt Nam từ trước đến nay chưa từng thấy một mô hình thống kê tín đồ cụ thể nào ngoại trừ nghi thức quy y xác nhận trở thành Phật tử. Do đó, không có gì quá ngạc nhiên về số lượng tín đồ quá chênh lệch được công bố chính thức bởi nhà nước Việt Nam trong vòng chỉ 5 năm vì cách thống kê này chỉ dựa trên lý lịch trích ngang do nhà nước thu thập(2). Trong khi Phật giáo thường cho rằng tín đồ của mình chiếm khoảng 80 hay chí ít cũng 50 phần trăm, tức có khoảng 40 - 50 triệu tín đồ, thì số liệu thống kê trên đã tạo nên sự phân vân.

Vậy thì, số lượng tín đồ Phật giáo chính thức là khoảng bao nhiêu và bằng cách nào để biết được con số ấy. Việc cấp phát thẻ cư sĩ Phật tử được đề xuất nhưng chưa được đồng thuận triển khai trên toàn quốc nên đến nay vẫn chưa có số liệu thống kê chính xác từ phía Phật giáo. Từ thực tiễn trên, bài viết này trình bày quan điểm về việc thống kê tín đồ và đưa ra cách nhận biết tín đồ thông qua việc hành trì tu tập của họ trong môi trường Phật giáo Việt Nam.

Nhu cầu thống kê tín đồ Phật giáo ở Việt Nam

Thống kê tín đồ Phật giáo chưa được thực hiện nghiêm túc cho đến nay. Thời Phật tại thế, việc thống kê tín đồ là điều không cần thiết với ba lý do cơ bản. Thứ nhất, tất cả các tôn giáo đều được sinh hoạt tự do, bình đẳng và đều được sự ủng hộ của các vị vua chúa. Thứ hai, các tín đồ có thể theo học cùng lúc nhiều tôn giáo mà không sợ sự đe dọa hay bị ngăn cấm. Thứ ba, các tín đồ tôn giáo gắn kết cộng đồng theo truyền thống, tập tục, và nhu cầu tu học, cầu nguyện hơn là theo tổ chức quản lý hành chánh tự viện(2).

Khi Phật giáo truyền vào Việt Nam từ khoảng thế kỷ thứ II, III trước Tây lịch đến đầu thế kỷ thứ XVI, nhu cầu thống kê tín đồ cũng chưa cần thiết và cũng khó thực hiện vì Phật giáo chưa có Giáo hội hành chánh cố định (trừ thời Trần, nhưng cũng chỉ để quản lý người xuất gia). Người Việt Nam trong thời gian ấy có thể theo cùng lúc ba tôn giáo gồm Phật, Nho và Lão cộng với đạo tổ tiên hay các tập tục truyền thống mà vẫn không bị trở ngại trong việc tu học, thậm chí còn bổ sung cho nhau.

Từ thế kỷ XVI tới nay, Việt Nam đón nhận và công nhận nhiều tôn giáo với hệ thống tổ chức rất bài bản và quản lý rất chặt chẽ. Tín đồ cải đạo theo các tôn giáo ấy được thống kê và quản lý rất kỹ. Trong khi thời thế thay đổi, Phật giáo vẫn trung thành với lối suy nghĩ “Phật pháp quý báu đâu phải đồ bỏ, ai đủ duyên thì tìm đến cầu học, ít mà chất lượng vẫn hơn…”, màng gì đến chuyện thống kê tín đồ. Sự phát triển thụ động và tự phát vẫn kéo dài cho đến ngày nay dù đã có nhiều thay đổi. Như thế, phải chăng việc thống kê tín đồ chỉ là việc làm vô ích, mất thời gian?

Thống kê tín đồ là nhu cầu cần thiết trong thời đại ngày nay. Tất cả tôn giáo được công nhận hoạt động ở Việt Nam hiện nay đều phải đăng ký tổ chức, trụ sở, Giáo hội… với tôn chỉ, mục đích, tín đồ…. Dù muốn hay không, các tôn giáo đều phải có quản lý hành chánh, với Phật giáo đang được áp dụng cho Tăng Ni. Hầu hết Tăng Ni đều phải đăng ký và cư trú tại các cơ sở Phật giáo được chính thức công nhận (trừ một số ít ở am thất, nhà cư sĩ). Các cơ sở Phật giáo là các trung tâm văn hóa tâm linh để cư sĩ Phật tử và quần chúng mến đạo Phật đến tu học, lễ bái….

Từ số lượng cơ sở Phật giáo có thể suy ra số lượng tín đồ dựa trên con số quy y và tham dự hàng năm. Nếu cơ sở tự viện tăng và quần chúng tăng thì Phật giáo đang được duy trì và phát triển. Nếu cơ sở giảm, tín đồ giảm; cơ sở giảm, tín đồ tăng (hiếm thấy); cơ sở tăng, tín đồ giảm thì có thể nhận biết Phật giáo đang xuống dốc về số lượng. Chính thống kê giúp ta nhận biết dấu hiệu này để có chính sách điều chỉnh hợp lý. Sự thống kê hiện tại được thực hiện qua hai cách.

Thống kê theo quy y

Quy y là cách chính thống để thống kê số lượng Phật tử. Hàng năm, con số Phật tử quy y tại tất cả các tự viện trên toàn quốc không phải là ít. Các chùa đều có ghi tên tuổi, đặt pháp danh, và trao phái quy y (như là giấy chứng nhận) cho các vị mới quy y. Nếu tập hợp con số thống kê này, Giáo hội sẽ dễ dàng nhận biết số lượng tín đồ tăng giảm chính thức là bao nhiêu và từ đó đề ra phương hướng thích hợp. Đáng tiếc, cho đến hiện tại Phật sự này vẫn chưa thực hiện triệt để mặc dù Giáo hội có hệ thống tổ chức hành chánh ba cấp đông đảo và thừa hưởng sự hỗ trợ của công nghệ hiện đại. Do đó, khi tiếp nhận số liệu thống kê từ nhà nước, Phật giáo hoàn toàn lúng túng, bị động.

Bên cạnh đó, các tự viện cũng không quan tâm thống kê số lượng tín đồ của mình. Các chùa cứ quy y rồi cấp phái quy y là xong mà thiếu sự quan tâm đến việc tu học của họ sau đó như thế nào, còn đi chùa, còn là Phật tử hay đã cải đạo rồi. Nhiều chùa cho quy y đơn giản đến mức không còn đơn giản hơn, tức là đến nghe tụng kinh, xong đọc tên, pháp danh và sau đó trao phái quy y. Họ không hề được giới thiệu về lịch sử đạo Phật, giáo lý căn bản và cách hành trì như thế nào - những điều mà đáng ra họ phải được học trước khi quy y.

Sự dễ dãi dẫn đến kết quả là họ không hiểu gì về đạo Phật nên cũng không biết cách hành trì thế nào ngoài việc lễ bái, cầu nguyện theo cách tín ngưỡng mê tín. Đó là một trong những nguyên nhân khiến họ ít hay thậm chí không đi chùa sau khi quy y, không hành trì lời Phật dạy mặc dù cũng xưng là Phật tử.

Thống kê theo khóa tu, lễ hội

Nếu cách thống kê theo danh sách quy y là chính xác thì cách thống kê thông qua khóa tu, lễ hội chỉ mang tính ước lượng.

Dựa vào số lượng Phật tử tham dự các khóa tu Phật thất, một ngày an lạc, Bát quan trai … hay các lễ hội lớn như Phật đản, Vu lan, Tết… con số tín đồ Phật giáo có thể ước lượng đại khái. Vì ước lượng nên mới có quan điểm cho rằng có khoảng 80 hay 50 phần trăm dân số theo Phật giáo. Vì ước lượng nên không có con số cụ thể nào cả. Cách thống kê này dễ bị nâng khống số lượng vì họ căn cứ vào số lượng khóa tu, lễ hội mà không căn cứ vào đối tượng tham dự.

Một người Phật tử khi tham dự nhiều khóa tu, nhiều lễ hội ở các nơi khác nhau thay vì tính là một người thì được tính là nhiều người theo số lần người ấy tham dự. Cách thống kê này hoàn toàn không chính xác và không đáng tin cậy.

Thống kê theo sự hành trì

Thống kê theo hành trì là cách người viết đưa ra để tham khảo ý kiến của chư tôn đức và tất cả thiện hữu tri thức. Trong khi cách thống kê chính thống chưa được thực thi để biết chính xác số lượng tín đồ Phật giáo thì thông qua cách hành trì có thể dự đoán độ chính xác rất cao nếu họ thực sự là Phật tử.

Theo truyền thống Phật giáo Đại thừa, ăn chay trường là điều bắt buộc đối với người xuất gia và ăn chay kỳ ít nhất một tháng 2 ngày là điều bắt buộc đối với hàng cư sĩ tại gia. Sau khi thọ Tam quy, phát nguyện hành trì năm điều đạo đức (năm giới), người Phật tử được dạy phải phát nguyện ăn chay ít nhất một tháng 2 ngày. Ăn chay 2 ngày một tháng là cách đơn giản nhất và dễ nhất mà một người Phật tử theo truyền thống Đại thừa phải thực tập khi bước vào con đường tu tập đạo Phật.

Nếu Phật tử hành trì nghiêm túc hạnh nguyện này thì số lượng tín đồ Phật giáo có thể nhận biết khả dĩ. Giả sử Phật giáo chiếm 80 phần trăm trên tổng số 90 triệu dân thì sẽ có 72 triệu Phật tử; nếu chiếm 50 phần trăm thì sẽ có 45 triệu Phật tử; và nếu chỉ có 10 triệu Phật tử thì chiếm khoảng 11 phần trăm dân số. Giả sử Phật tử chiếm 50 phần trăm, tức có 45 triệu người ăn chay vào 2 ngày mồng một và rằm mỗi tháng, thì vào hai ngày ấy sẽ có sự chuyển biến lớn trên thị trường tiêu thụ thịt cá. Vào hai ngày ấy thị trường đồ mặn sẽ giảm tối thiểu 50 phần trăm lượng tiêu thụ, chưa kể những người thích ăn chay. Một sự thay đổi tích cực mang tính văn hóa Phật giáo và nhân văn đáng được phát huy. Đáng tiếc, điều này dường như chưa từng xảy ra ở Việt Nam.

Có hai cách lý giải điều này. Thứ nhất, Phật tử không thật sự tôn trọng lý tưởng của mình hay nói cách khác là thờ ơ và dễ dãi với việc hành trì hạnh nguyện cơ bản và dễ làm nhất này. Nếu thử so sánh với các đạo khác thì người Phật tử còn phải học ở họ rất nhiều về thái độ tôn kính và sự nghiêm túc. Có đạo một năm ăn kiêng nguyên một tháng (không ăn từ khi mặt trời mọc đến khi mặt trời lặn), vậy mà tất cả tín đồ đều thực hành nghiêm túc. Hai ngày xen kẽ trong một tháng thì có đáng gì với một tháng liên tục phải nhịn đói cả ngày để tối mới được ăn. Thế mà họ vẫn nghiêm túc thực hành, còn Phật tử thì không thể làm một việc rất lợi ích và có ý nghĩa này. Tính dễ dãi làm cho Phật giáo dễ suy vong.

Thứ hai, số lượng Phật tử chính thức chiếm thiểu số như dự đoán của nhà nước, trong khi Phật tử tín ngưỡng (không thừa nhận là Phật tử trong giấy tờ) chiếm nhiều hơn nên mục tiêu hành trì như trên không đạt được. Tuy nhiên trong thực tế, Phật tử quy y chính thức cũng rất nhiều nhưng lại thích thực hành theo lối tín ngưỡng, dễ dãi, tức chỉ thích cầu nguyện hơn là hành trì lời Phật dạy, thích an ủi hơn là nỗ lực tu tập. Do đó, dù đã quy y có pháp danh nhưng họ có thể chỉ là Phật tử tín ngưỡng.

Thay lời kết

Mục tiêu của tôn giáo nói chung là phải thực hành để đạt được kết quả như nó đề ra. Phật giáo được thế giới tôn vinh về văn hóa, đạo đức và nền minh triết thì càng phải thực hành để xứng đáng với sự tôn vinh ấy. Không ai khác hơn mà chính các Phật tử gồm hàng xuất gia và cư sĩ phải khẳng định và bảo vệ giá trị được tôn vinh ấy. Khẳng định sự tôn vinh không gì bằng thực hành những điều chính Phật tử phát nguyện.

Với người cư sĩ, một tháng thực hành ăn chay 2 ngày nghiêm túc là đã đóng góp xây dựng một nền văn hóa nhân văn cho xã hội Việt Nam. Đồng thời, các vị cũng đang đóng góp để khẳng định vị trí của Phật giáo trong nền văn hóa dân tộc và phủ định lại những con số chủ quan của ai đó đưa ra. Hy vọng quý tôn đức Tăng Ni và chư Phật tử thiện tâm góp ý, chỉ giáo.

Thích Hạnh Chơn

---------------------

 Chú thích

(1) Theo Sách trắng: Tôn giáo và chính sách tôn giáo ở Việt Nam xuất bản năm 2006, số lượng tín đồ Phật giáo là khoảng 10 triệu, nhưng bản thống kê dân số năm 2009 thì cho rằng số tín đồ Phật giáo chỉ là 6.802.318 (Ghi chú: số lượng tín đồ các tôn giáo khác đều bị giảm theo thống kê này).

(2) Xem Dr. Yashpal, A Cultural Study of Early Pali Tipitakas, vols.1, 2, Delhi: Kalinga Publications, 1999, tr.256.

http://giacngo.vn/nguyetsan/phatgiaovaxahoi/2013/04/24/134402/


©2010 -2024  Chùa Bửu Minh | Homepage