Chùa Bửu Minh

VỊ SƯ HUYNH ĐẦY ĐỨC HẠNH CỦA HÒA THƯỢNG T. HÀNH TRỤ


 

  1. THÂN THẾ VÀ GIA TỘC:

Hòa Thượng THÍCH PHÚC HỘ thế danh HUỲNG VĂN NGHĨA sanh ngày 24-7 năm Giáp Thìn (1904) đời Vua THÀNH THÁI, tại làng Phù Sơn xã Xuân Thọ, huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên (Bắc Phú Khánh). Ngài được sinh trưởng trong một gia đình thuần tín quy kính Tam Bảo, là con thứ trong gia đình. Thân phụ là cụ HUỲNH TRUNG, than mẫu là cụ TRẦN THỊ NHO.

THỜI THƠ ẤU:

Lên năm 9 tuổi (Nhâm Tý 1912) Ngài được song thân cho lên chùa Từ Giác trong địa phương, tham học chữ nho với Đại Sư Thiện Hạnh, trải qua 6 năm mài miệt đèn sách học tập với nhà Sư kiêm thông y lý. Ngài dần dần quen thuộc quyến luyến cảnh Chùa am, cộng với túc duyên đã có nhiều đời thôi thúc, nên Ngài quyết chí xuất gia học đạo.

THỜI GIAN HỌC ĐẠO:

Đến năm Đinh Tỵ (1917) Ngài vừa lên 14 tuổi, được song thân ưng thuận và đưa Ngài đến Chùa Sắc Tứ Phước Sơn (Đồng tròn) thuộc xã Xuân Sơn, huyện Đồng Xuân đầu Sư với Hòa Thượng trụ trì hiệu THIỀN PHƯƠNG, một thiền Sư thuộc dòng Lâm Tế CHÚC THÁNH đời thứ 41 và ban cho pháp danh là : Thượng Thị hạ CHÍ tự HÀNH THIỆN.

THỜI GIAN TU HỌC:

Ở đây liên tiếp trong 5 năm tu học, chấp lao phục dịch và hầu cận bên Thầy, làm tròn phận sự của 1 người sơ tâm học Đạo .

Đến năm Nhâm Tuất (1922) tại chùa Linh Sơn, thuộc thôn Ngân Sơn, xã An Thạch, huyện Tuy An tỉnh Phú Yên, mở đại giới đàn truyền trao giới pháp cho tăng Ni Phật Tử, ngài được Hòa Thượng Bổn Sư cho đến đó để thọ giới cụ túc.

Trong Đại giới đàn này, Ngài là thủ Sa Di mặc dù tuổi mới 19 nhưng vì thiết tha cầu giới với oai nghi tế hạnh và đạo tâm của Ngài nên Hòa Thượng Hoằng Hóa làm đàn đầu Hòa Thượng giới đàn này cảm mến đặc cách cho thọ tam đàn cụ túc giới, Được đắc pháp tại giới đàn này, Hòa Thượng bổn sư ban pháp hiệu cho Ngài là PHÚC HỘ.

Ngài liên tục hầu hạ bổn sư, tinh tấn tu học ròng rã trong 10 hạ và từ đây vì hạnh nguyện xuất trần của Ngài càng nung nấu chí tu học, nên sau thời gian hầu cận bên Thầy, lúc nào cũng muốn phát túc siêu phương, nghiên tầm áo điển.

THỜI GIAN DU HỌC:

- Đến năm Nhâm Thân (1932) Ngài được 28 tuổi, được Hoà Thượng Bổn sư cho ra tham học với Hòa Thượng GIÁC VIÊN chùa Hồng Khê Huế.

- Qua năm sau 1933 được tin Bổn Sư lâm bệnh, nên Ngài đành thôi học, trở về lo hầu cận thuốc thang cho Thầy.

- Tháng 6 năm Quý Dậu 1933 Ngài được 29 tuổi, được Hội Đồng Chư Sơn tỉnh Phú Yên, nhất tâm công cử làm Trụ Trì ngôi Sắc Tứ Từ Quang Tự (đá trắng) Phú Yên. Tổ đình này thuộc thôn Cận Lương xã An Dân huyện Tuy An là nơi danh lam thắng tích do tổ Pháp chuyên thiền sư thuộc dòng Lâm Tế đời thứ 36 khai sáng từ năm Đinh Tỵ (1797) niên hiệu Cảnh Thịnh đời vua Nguyễn Quang Toản. Tuy Ngài nhận chức Trụ Trì, song Hòa Thuợng trưởng lão Pháp Ngữ đương vị Trụ Trì còn khỏe mạnh, nên ngài du hóa các nơi để hoằng hóa Phật sự.

- Mãi đến năm 1945 Ngài mới chánh thức thường trú tại Tổ Đình Từ Quang, tức sau khi Hoà Thượng Pháp Ngữ viên tịch.

Đến mùa hạ năm Giáp Tuất (1934) Ngài được 30 tuổi Chư Sơn tỉnh Khánh Hoà thỉnh Ngài vào làm Giáo Thọ chùa Thiên Bảo huyện Ninh Hoà. Vì công việc Phật sự đến thì cố gắng làm nhưng lòng cầu học lúc nào cũng tha thiết. Nên đến mùa đông năm này (1934) lại xin bổn sư cho ra Chùa Sắc Tứ Thập Tháp Di Đà Bình Định tham học với Tổ PHƯỚC HUỆ được 3 năm.

THỜI GIAN VÀ SỰ NGHIỆP HOẰNG PHÁP:

- Năm Đinh Sửu (1937) Ngài đuợc 33 tuổi nhận lời mời của Ngài Huệ Đạo vào giảng dạy tại trường Gia Giáo Chùa Tây Thiên cho các Tăng sĩ ở Phan Rang tỉnh Ninh Thuận một thời gian.

- Đến năm Mậu Dần (1938) Ngài được 34 tuổi trở về Phú Yên hợp tác với các Chư Sơn bản tỉnh mở Phật Học Đường tại chùa Bửu Lâm thôn Liên Trì (nay thuộc xã Bình Kiến thị xã Tuy Hòa), Ngài kiêm luôn chức Giáo thọ đề dạy dổ Tăng sinh.

Đến năm Tân Tỵ (1941) Ngài được 37 tuổi, nhận lời mời của Tổng trị sự Hội Phật Học Huế ra làm Giáo học lớp Sơ Đẳng Phật học đường Chùa Báo Quốc một thời gian.

- Đến năm Nhâm Ngọ (1942) Ngài trở về Phú Yên, giúp việc cho Hội Phật học bản tỉnh, thường xuyên giảng dạy Giáo lý cho Tăng tín đồ Phật tử. Lại các tổ đính Phú Yên, ngày trước có lệ hằng năm sau ngày rằm tháng bảy các điệu chúng các Chùa thường tập hợp về 1 tổ đình để tu học đôi ba tháng rồi trở về Chùa củ của mình thời gian này cũng do Ngài làm giáo thọ, nhơn đó mà Ngài đã hướng dẫn một số chư Tăng ra tham học ở Huế, mà ngày nay được hữu dụng như: Hòa Thượng TRÍ NGHIÊM, Hòa Thượng PHƯỚC TRÍ, Hòa Thượng PHƯỚC BÌNH, Thượng Tọa VĨNH LƯU, Thượng Toạ TRÍ THÀNH v.v…đó là một công hạnh tiếp dẫn hậu lai chính là do Ngài vậy. Năm Ất Dậu (1945) Ngài được 41 tuổi, Ban Trì Sự Hội Phật Học Phú Yên mở hội đồng công cử Ngài làm chức Chánh Hội Trưởng Hội Phật Học Tỉnh Phú Yên.

- Đến năm 1954 mặc dù trong giai đoạn này, nước nhà gặp cảnh chiến sự gay go, tình hình địa phương không được yên ổn, nhưng nghĩ đến Đạo Pháp tương lai, nên Ngài phải liên tiếp trong mấy năm đảm đương trách nhiệm hướng dẫn tinh thần cho toàn thể Phật Tử giữ vững niềm tin.

- Đến năm Đinh Hợi (1947) nhờ đạo phong và đức độ uy tín của Ngài nên đã trùng tu lại ngôi Tổ Đình Từ Quang (đá trắng) được khang trang.

- Năm Kỷ Sửu (1949) đến năm Giáp Ngọ (1954) liên tiếp trong 5 năm liền Ngài vẫn giữ chức Chánh Hội Trưởng Hội Phật Học Tỉnh Phú Yên để hướng dẩn tinh thần học cho Tăng Ni tín đồ, cũng trong giai đoạn khó khăn này, Chư Sơn Phật Giáo tỉnh Bình Định cố gắng tổ chức Đại Giới đàn (1952) tại Chùa Thiên Bình, cung thỉnh Ngài làm Yết Ma A Xà Lê một trong hàng tam sư.

- Đến năm Kỷ Hợi (1959) suốt đến năm Quý Mẹo (1963) tức Ngài được 55 tuổi cho đến 59 tuổi do uy tính và đức độ của Ngài, nên Chư Sơn và tín đồ Phật giáo tỉnh Phú Yên nhất tâm cung thỉnh Ngài cùng một lúc đảm nhận 2 chức vụ Trị Sự trưởng Giáo Hội Tăng Già kiêm Hội Trưởng Hội Phật Giáo tỉnh Phú Yên. Trong thời gian này, Ngài cùng toàn thể tính đồ trong tỉnh xây dựng ngôi trường Bồ Đề Tuy Hoà từ tiểu học đến trung học để giáo dục cho con em Phật tử và đồng bào, đồng thời cũng xây dựng 1 cơ sở Cô Nhi Viện Phật Giáo Phú Yên để nuôi dưỡng các em mồ côi.

- Năm Giáp Thìn (1964) sau ngày Đại biểu Đại hội Phật Giáo Thống Nhất tại Chùa Xá Lợi Sài Gòn, một lần nữa Tăng tín đồ Phật giáo tỉnh Phú Yên nhất tâm cung thỉnh Ngài giữ chức Chánh Đại diện GHPGVNTN tỉnh Phú Yên liên tiếp trong 3 nhiệm kỳ từ năm Giáp Thìn (1964) đến năm Canh Tuất (1970) trong thời gian này Ngài cùng với Tăng tín đồ bản tỉnh trùng tu lại Ngôi Tổ đình Bảo Tịnh được khang trang, nơi đây cũng là di tích lịch sử do Tổ Liễu Quán khai sáng.

- Tháng 6 năm Mậu Thân (1968) Đại giới đàn Phước Huệ Phật Học Viện Nha Trang do Hoà Thượng THÍCH TRÍ THỦ làm chủ đàn, Ngài được đệ nhứt Đức Tăng Thống GHPGVNTN Hoà Thượng THÍCH TINH KHIẾT ân cần mời thay Ngài làm đàn đầu Hòa Thượng truyền giới pháp cho các giới tử tứ chúng xuất gia và tại gia.

- Tháng 9 năm mậu Thân (1968) Ngài đđược GHPGVNTN tỉnh Bình Đinh cung thỉnh lam đàn đầu Hoà Thượng trong đại giới đàn Vĩnh Gia mở tại Chùa Long Khánh Qui Nhơn.

- Năm Tân Hợi (1971) Ngài là một trong những vị Hòa Thượng thuộc hội đồng Trưởng Lão GHPGVNTN Trung ương và là Chủ tịch Hội đồng Giám Luật Viện Tăng Thống . Trong những năm gần đây, Ngày được Hòa Thượng THÍCH TRÍ THỦ Giám Viện Phật Học Viện Trung phần Nha Trang và toàn ban giám đốc , nhất tâm cung thỉnh Ngài làm Y chỉ sư hướng dẫn tinh thần Tu học cho Chư Tăng Phật Học Viện trong những mùa an cư.

Nhờ đức độ của Ngài,nên sự tu học được nhiều kết quả tốt đẹp. Tưởng cũng nên biết thêm, sau những ngày Đức Cố Tăng Thống Đệ I Hòa Thượng THÍCH TỊNH KHIẾT viên tịch ngày 23 tháng giêng năm Quý Sửu, ngôi vị Tăng Thống bị khuyết Hội Đồng Lưỡng viện Giáo Hội Trung Ương xét thấy ngoài những vị Tôn túc Hòa Thựơng quá cao niên sức yếu , chỉ có ngài là Hòa Thượng có đủ uy tính và đạo đức, giới hạnh, xứng đáng ngôi vị Tăng Thống, nên đã nhiều lần thỉnh cầu ngài lên kế vị, nhưng với đức khiêm tốn, ngài đã nhiều lần từ khước.

- Qua tháng 9 năm Quý Sửu (1973) Hòa Thượng THÍCH TRÍ THỦ đàn chủ nhất tâm cung thỉnh ngày làm đàn đầu Hoà Thượng tại Đại Giới đàn Phước Hụê Viện Hải Đức Nha Trang.

Ngày 07-11-1981 (Tân Dậu) trong Đại Hội đại biểu Phật Giáo toàn quốc họp tại Chùa Quán Sứ Hà Nội, Ngài được cung thỉnh làm một thành viên trong Hội đồng chứng minh TWGHPGVN.

- Tháng 8 năm Nhâm Tuất (1982) Đại hội Đại biều Phật Giáo tỉnh Phú Khánh cung thỉnh Ngài làm Ban chứng minh Đạo sư của Tỉnh hội tỉnh Phú Khánh.

- Đến đây có thể nói Ngài là một vị sao sáng chói nhất trong bầu trời u thẩm đầy biến động để soi đường chỉ lối cho chúng sanh vượt qua những cam go thử thách, nguy biến ngặt nghèo của bóng tối ma vương mà giữ được phẩm chất trong sáng, bình thường, giản dị của Đạo Phật nhập thế, cuối thế kỷ 20 này.

Trong tông môn của Ngài, về lớp nhỏ có cả thảy 7 huynh đệ đồng sư, anh cả là Hòa Thượng THÍCH PHƯỚC CƠ (HT. Phước Cơ xuất gia trước vá lớn tuổi nhưng thọ cụ túc giới sau Ngài, nên xem Ngài là anh cả trong tông môn) rồi đến Ngài là Hòa Thượng PHÚC HỘ, kế tiếp là Hòa Thượng PHƯỚC TRẠCH, Hòa Thượng PHƯỚC ĐỊNH, Hòa Thượng PHƯỚC BÌNH (HÀNH TRỤ), Hoà Thượng PHƯỚC NINH và người cuối cùng là Hòa Thượng PHƯỚC TRÍ. Nhưng 3 vị Hoà Thượng PHƯỚC CƠ, PHƯỚC TRẠCH, PHƯỚC ĐỊNH đã viên tịch từ trước. Tông môn giờ đây chỉ còn lại Ngày là anh cả nối gót quyền huynh thế phụ, Ngài có một tình cảm dạt dào, thương yêu đùm bọc các sư đệ, ngay cả thời thơ ấu, chẳng kể gian lao, không từ khó nhọc hướng dẫn đàn em sau này thành những người hữu dụng mà ngày nay được bổ xư trụ trì các nơi: Hòa Thượng PHƯỚC BÌNH trụ trì Tổ Đình Đông Hưng ở Thủ Thiêm Sài Gòn vừa mới viên tịch 1984.

Hòa Thượng PHƯỚC NINH Trụ Trì Tổ Đình Sắc Tứ Bảo Sơn ở Phú Yên. HòaThượng PHƯỚC TRÍ Trụ Trì Tổ Đình Sắc Tứ Phước Sơn Phú Yên. Đây cũng là một công hạnh tiếp dẫn hậu lai mà Ngài hoàn thành với nhiệm vụ của người xứ giả Như Lai.

ĐỨC HẠNH NHIẾP HOÁ ĐỒ CHÚNG:

Cho dù công việc Phật sự thật đa đoan Ngài vẫn không xao lãng việc giáo hóa đồ chúng, tuỳ theo căn bệnh mà cho thuốc, hạnh giải thoát của Ngài biểu hiện qua đức tính:”Tuỳ duyên nhiếp hoá” Ngài không bao giờ tham cầu đệ tử, Ngài thường dạy:” Nhơn như thị quả như thị” những người nào có túc duyên với Ngài thì được Ngài tế độ, còn những người chưa có túc duyên với Ngài thì Ngài sẽ gieo cho họ 1 nhân duyên để đến gần với Phật Pháp. Vì vậy cho nên những đại giới đàn ở miền Trung điều cung thỉnh Ngài làm đàn đầu Hoà Thượng, hơn thế nữa, mấy mùa an cư liên tiếp, tại Phật Học Viện Nha Trang Ngài được cung thỉnh làm thầy Y chỉ hướng dẫn tinh thần tu học cho Tăng Ni tính đồ Phật Tử.

Đối với người xuất gia: thì Ngài đã cân nhắc và răn dạy:”Làm sao cho đạo Pháp được trường tồn , ngày một rạng rỡ. Các Thầy và Tăng bảo, là ruộng phước của tính đồ, ruộng phước dày hay mỏng sẽ phụ thuộc vào sự nhiếp tâm chính niệm nghiêm trì giới luật, và khép mình vào khuôn vàng thước ngọc để được nếp sống mẫu mực của bậc Tăng Già, chính lúc này là Đạo Pháp sẽ sáng chói nhất”. Có lần Ngài gởi bức thư cho người đệ tử ở phương xa Ngài dạy:”Thế gian vô thường, vạn vật biến đổi, con có biết không? Ngày nay con không đủ túc duyên gần gủi bên Thầy mà phải xa Thầy, thì dù ở bất cứ nơi nào, mà tâm của con vẫn thủy chung với đạo Pháp và nghiêm trì giới luật. Chính lúc này con đã báo đáp ơn Thầy Tổ rồi đó, và con luôn luôn ở bên cạnh Thầy”.

Đối với người tại gia: Vì phải gánh vác công việc gia đình và nhiều bổn phận, thì Ngài chỉ khuyên cố gắng niệm Phật cho nhiều và theo phương pháp công cứ để cầu vãng sanh về thế giới Cực Lạc khi lâm chung, và Ngài khuyên cố gắng lạy Phật, làm lành lánh dữ để gieo nhân lành cho đời sau.

Thân tứ đạicủa Ngài giờ đây đã mòn mõi về luật sinh diệt vô thường chi phối, ví như cây khô đang còn chút hương thừa của nhựa sống, nhưng tinh thần và đạo phong của Ngài vẫn sáng suốt ký ức vẫn tỏ rõ, tuy nay đã ngoài 80 tuổi, song thứ tự và các việc diễn ra trong đời…khi cần dẫn dụ, bất cứ ở thời điểm nào cũng đều mạch lạc thông suốt không nhầm lẫn, có thể ví Ngài như một cuốn từ điển phổ thông linh hoạt nhất cho bất cứ ai mỗi khi cần tra cứu. Lên non mới biết non cao, thức đêm mớ biết đêm dài; tránh nắng ở trong nhà, mấy ai biết được sức nóng của mặt trời ra sao? Có lăn lộn vào cuộc đời, có tiếp xúc và va chạm vào thực tế, mới cảm nhận được đạo phong của Ngài linh động và hùng vĩ qua những lời giáo huấn vàng ngọc, nêu cao trí tuệ và đức tự chủ tự giác. Diễm phúc thay cho những môn đồ sống ở bên cạnh Ngài, Ngài là hiện thân của đầu đà đức hạnh, Ngài thể hiện đức tính từ bi của Bồ Tát. Nhìn lại quá khứ qua bao năm tháng nhọc nhằn, Ngài vẫn an nhiên dấn thân vào công tác Phật sự, có lắm lúc phải lèo lái con thuyền Đạo Pháp chông chênh qua cơn bão tố. Ngài là một tấm gương sáng mà từ mọi góc cạnh của không gian và thời gian, ảnh của chúng ta có thể phản chiếu một cách trọn vẹn trong đó.

8. NHỮNG NGÀY CUỐI CÙNG:

- Vẫn biết thế gian là vô thường, thăng trầm luôn chuyển, nhân sinh thống khổ, dòng sinh diệt thay đổi liên tục không ngừng, nhưng Ngài lúc nào cũng hoài niệm mong muốn trùng hưng các chốn Già Lam, các Tổ Đình danh tích, đẹp đạo tốt đời, như Tổ Đình Sắc Tứ Từ Quang, Tổ Đình Sắc Tứ Bát Nhã, Tổ Đình Sắc Tứ Phước Sơn, Tổ Đình Sắc Sứ Bảo Sơn , Viên Quang và Long Sơn Hạ… Đã bị thời cuộc chiến tranh tàn phá.

Cả một cuộc đời của Ngài sống bình thường và giản dị, siêng năng cần cù, nhu hòa nhẫn nhục, lúc nào cũng nghiêm khắc với bản thân, song lại khiêm tốn và nhã nhặn, Ngài lại thích làm nhiều hơn nói, Ngài thương đồ chúng và hết lòng phụng sự Tam Bảo. Với tư cách hoà ái kính nhường, giọng nói nhẹ nhàng và hoà dịu, nên khi tiếp xúc với mọi tầng lớp tín đồ khiến ai ai cũng cảm mến và cung kính Ngài. Ngài luôn luôn cảnh giác dòng sinh mệnh ngay khi còn ở tuổi trung niên. Kìa, chiếc kim quan để khâm liệm… nơi ký quy thân phần… nhất nhất đã được Ngài chuẩn bị chu toàn tất cả.

Dù cho thời gian cứ vận chuyển liên tục, cho không gian, vận hành trong tương quan, với chiếc áo nâu sòng, vải thô, bạc màu không thay đổi. Với chiếc nón lá xa xưa, rộng vành như tàn nấm, nhuộm đầy phong sương, che nắng ngăn mưa vẫn còn đây. Cây gậy trúc thon thon, sáng sậm, cũ kỷ, chắc chắn, đơn thuần, tự nhiên không chạm trổ điểm tô, là những món thường dùng hằng ngày linh động nhất làm tăng hương sắc thiền định giới định huệ của cả một đời Ngài.

Gần đây vì tuổi già sức yếu, để tiện việc tiếp xúc với Tông Môn, hàng Tăng tín đồ Phật tử nhất tâm cung thỉnh Ngài an trú luôn tại Tổ Đình Bảo Tịnh thị xã Tuy Hòa Phú Khánh để dễ dàng trong công việc phụng dưỡng.

Trước khi Ngài thị tịch, Ngài ân cần dạy bảo từng chi tiết một, về các vấn đề sách tấn tu học của các Tăng Ni, Tín đồ Phật Giáo không luận giàu nghèo, sang hèn già trẻ… Mỗi khi được tiếp xúc hầu thăm, Ngài đều thiết tha khuyến hoá trên đường tu niệm.

Than ôi! Hoa nở để rồi tàn, trăng tròn để rồi khuyết, hội họp để rồi tan, bóng quan âm thấp thoáng, thân tứ đại mất còn, trải hơn 80 năm dài đăng đẳng, hoà quang đồng trần trên cuộc đời, nay nhân duyên đã mãn, Ngài đã an tường Thị Tịch xã bỏ báo thân lúc 7 giờ sáng ngày 11 tháng giêng năm At Sửu (theo lịch mới) dựa vào quyết định số 121/HĐCP ngày 8-8-1967 nhằm ngày 11-12-Giáp Tý và dương lịch ngày 31-1-1985 Ngài hưởng thọ 82 tuổi và 63 tuổi Đạo.

Hôm nay dưới đỉnh trầm hương nghi ngút tỏa ngát linh đài, hàng đệ tử chúng con khấu đầu thành kính, đốt nén tâm hương kính lược thuật đời Ngài, cả một đời người tận tuỵ hy sinh cho Đạo Pháp và quần sanh.

Than ôi!... hạc vàng nay đã bay cao,

Từ quang đá trắng lệ trào trong tâm

Con về thăm lại chùa xưa

Nghe trong cây cỏ mới vừa khóc than

Ôi!Thôi thôi… sửa pháp mất rồi, lòng con đói mãi

Tông môn từ đây vĩnh viễn bóng Tôn Sư

Và hôm nay:

Chùa TỪ QUANG mây sầu ảm đạm

Tiếng chuông buồn thoảng phất trong mây,

Tông môn huynh đệ còn đây…

Trời xuân lãng đảng bóng Thầy về Tây,

Ngài ra đi, nhưng dư hương đạo nghiệp vẫn còn đây,

Giáo hội mất đi một bậc Thầy khả kính, rường cột của Phật Pháp.

Để tưởng nhớ đến công ơn Pháp nhủ của Ngài, chúng con nguyện noi gương đức hạnh của Ngài, trên bước đường giải thoát. Ngưỡng mong Giác Linh Ngài chứng giám lòng thành, mật thuỳ gia hộ.

PHỤNG VÌ TỪ QUANG ĐƯỜNG THƯỢNG TỰ LÂM TẾ CHÁNH TÔNG- TỨ THẬP NHỊ THẾ HÚY THƯỢNG THỊ HẠ CHÍ TỰ HÀNH THIỆN HIỆU PHÚC HỘ ĐẠII LÃO HÒA THƯỢNG CHỨNG MINH.

MÔN ĐỀ ĐỆ TỬ KHẮP BÁI

Nguon: http://www.buddhistedu.org/viet/mon-phong-dong-hung/tieu-su/84-s-lc-tiu-s-hoa-thng-thich-phuc-h


©2010 -2024  Chùa Bửu Minh | Homepage