Phía trước là cánh đồng với nhánh sông Kôn từng quẫy
đạp, uốn lượn dưới chân Thành Hoàng Đế, giờ hững hờ qua những bãi mía soi
dưa. Mùa lũ, nước sông dâng ngập trắng bãi bờ. Đầu tiên là con mương nội
đồng, rồi cứ thế nước tràn lên từng bậc ruộng. Bám theo lũ là đàn cá chép,
cá luối nguồn, cá diếc… đi tìm mồi và tìm nơi đẻ trứng…
Lũ
chúng tôi toàn những thằng con trai 13-15 tóc xém, da đen rủ nhau chèo
thuyền, thả cá, dăng câu rồi đi bẻ mía trộm. Mùa hè, nước cạn là thú thả
diều, nhử chim, tắm sông rồi chia phe đánh trận giả trên cánh đồng đầy rơm
rạ vào những đêm trăng thanh mát.
Chúng
tôi vô tư thoả thuê uống nguồn sữa quê hương qua những vệt bùn xám sạm tay
chân, qua khét nồng màu tóc hoe trưa cháy, qua những đêm dài ngủ dưới chân
người cầm chầu hát bội, vẳng cả trong mơ câu hát khách thanh bình. Con lân
nơi góc Văn Thánh (tên gọi của Văn Miếu - đền văn Bình Định) lung linh theo
tiếng gọi tắc kè những đêm trăng thanh vắng không làm nhụt chí đám con trai
mình trần chân đất từng trèo lên tháp Cánh Tiên bắt chim sáo nghệ, lẩn vào
lăng Võ Tánh cưỡi con nghê đá của vị trung thần, hoặc lẻn vào đồn “cuỗm” ống
nhòm…
Dù tinh nghịch là thế, nhưng mỗi tết
về, khi được cha dắt vào chùa Thập Tháp hay chùa ông Đá - Nhạn Sơn thì tôi
lại cung kính lạy quì dưới những tượng Phật thâm nghiêm và nép mình chui qua
chân hai ông Đen ,ông Đỏ để cầu cho sức khoẻ bình an và học giỏi.
“
Mùng một tết cha, mùng hai tết mẹ, mùng ba tết thầy …” Chẳng nhớ năm nào,
chỉ biết đó là cái Tết đầu tiên tôi được vào học lớp ba của thầy Huệ. Sáng
mùng ba Tết, cha chở tôi đi tết thầy bằng chiếc xe “đòn dông” gồ ghề qua
những con đường chân trâu lỏm bỏm, qua những đám hội bài chòi, lô tô rộn
ràng lời hô anh hiệu… Nhà thầy Huệ ở gần chân tháp Phú Lốc, đường ngõ quanh
co xù xì những gốc me tuổi vài thế kỷ, nghe thâm nghiêm, thanh vắng tiếng cu
cườm.
Vào
nhà thầy, ngồi trên phản gõ, xung quanh sặc sỡ hoành phi liễn đối treo đầy
trên hai hàng cột cái, cha tôi cẩn thận mở chai rượu Bầu Đá rót đầy hai ly
trên chiếc khay gỗ cẩn xà cừ rồi gọi tôi lại đứng trước thầy đọc câu “chúc
thầy năm cũ bước sang năm mới thật nhiều sức khoẻ để dạy dỗ học trò…” mà
dọc đường ông đã dặn tôi học thuộc lòng. Tôi mừng rơn khi được thầy Huệ “lì
xì” một đồng cắt và chiếc bánh cốm dẻo thơm vuông vức lóng lánh những hạt
đường cát trắng tinh…
Chẳng
nhớ năm nào, chỉ biết đó là những năm tôi vừa 8 hay chín tuổi, mẹ hay dắt
tôi về giỗ ngoại ở làng Đại Hoà, Nhơn Hậu nằm bên kia Bến Gỗ, cách làng tôi
một con sông Quai Vạc, một đoạn Thành Hoàng Đế và năm ba vạc mía, nương dâu.
Hồi ấy, cầu Bến Gỗ - cây cầu của tuyến đường sắt Bắc Nam nằm ngay trên Bến
Gỗ, một trong những bến sông sầm uất thời Tây Sơn – Nguyễn Huệ với những
“ngựa xe nghịt dài Bến Gỗ, những bè cây lừng lững đại ngàn tới tấp dừng chân
đổi trao mua bán…” chưa bắc ván cho người qua lại, nên mẹ phải đưa tôi đi
hướng chùa Thập Tháp, băng qua Bả Canh, rồi xóm Bờ Thành, xóm Nam Tân, Nhạn
Tháp… Đó là những làng nghề nổi tiếng quanh thành Hoàng Đế với các nghệ nhân
đúc đồng, tiện gỗ, làm rèn, làm đồ gốm nức tiếng nhiều nơi…
Quà
mẹ tôi mang về sau ngày giỗ ngoại thường thì ngoài những chiếc bánh ít lá
gai gói trong tàu chuối còn là những cán câu liêm, những chiếc cối đâm cua,
hay những chiếc vụ trắc đen hun mua từ làng rèn, làng tiện… Ấy là đặc sản ở
quê ngoại, còn ở quê tôi, xứ Gò Găng với đồi Gò Quánh đá ong và hàng rào kẽm
gai đầy bom mìn của sân bay Phù Cát thì ngoài chiếc nón mảnh mai được cải
biên từ nón ngựa của xứ Kiều Huyên, chỉ có nghề đẽo đá ong và cày sâu cuốc
bẵm trên những vạt ruộng dọc con sông Quai Vạc.
Nghề đá ong đòi hỏi người khoẻ mạnh,
còn nghề nón thì từ trẻ già, trai gái ai cũng làm được. Nhà tôi không có con
gái, nhiều hôm tát nước về khuya, ăn bữa cơm chiều xong đã hơn tám giờ tối.
Mọi người đi nghỉ, tôi học bài ở nhà trên, còn mẹ tôi chong đèn chằm nón.
Nhiều bữa gặp chợ phiên, bà thức đến một hai giờ sáng để có nón kịp đi chợ
Gò Găng bán, lấy thêm vài đồng lời cho tôi đi học.
Có lẽ hình ảnh chiếc đèn dầu và bóng mẹ tôi miệt mài bên vành nón,
cùng bao kỷ niệm vui buồn bên chân thành Hoàng Đế và dòng Quai Vạc đã trở
thành máu thịt nuôi dưỡng tâm hồn tôi nên được như ngày nay.
Ghi
lại những buồn vui này, hồi ấy tôi có viết nhật ký và làm thơ. Thường là
những bài viết về cây vông đồng, về con lân nơi Văn Miếu, về gốc trầu bên
cây bồ ngót ông nội tôi trồng ở góc sân (giờ to lớn như cột đình) đã hơn
trăm tuổi… Còn có những bài về nỗi buồn chán, bi quan thương tật, hay về cô
bạn gái cùng trường thường mặc chiếc áo màu vàng sậm với nón bài thơ tóc thề
bỏ lửng…
Hồi
ấy, cả làng tôi và gia đình tôi cũng vậy, chiến tranh bom đạn, lam lũ làm
ăn, ít ai nghĩ đến việc học. Cho nên tôi làm thơ mà không dám cho ai hay.
Có bài tôi lén gửi cho người bạn gái, còn hầu hết là cất kỹ ở đáy rương. Sau
này, khi tôi xa nhà, tưởng là vở cũ, mẹ tôi đã lấy tất cả đem chèn lá, lợp
nón. Như vậy, những bài thơ đầu tiên của tôi đã được lợp nón che nắng, che
mưa cho những người dân quê sớm tối trên đồng. Ý này về sau tôi có đưa vào
một số bài, như bài: “Bài thơ trên cánh diều”, in đầu tiên ở Tạp chí tác
phẩm mới của Hội nhà văn Việt Nam.
Những
năm đầu tiên xa nhà, học đại học ở Đà Nẵng, nhớ quê, nhớ kỷ niệm tuổi nhỏ,
tôi đã viết lại một số bài thơ cũ rồi hợp thành tập “Cổ tích tình yêu” do
nhà thơ Thanh Quế đề tựa.
Nguồn sữa quê hương đã nuôi dưỡng đời
tôi, nuôi dưỡng tâm hồn tôi có được như ngày nay. Câu nói ấy tôi càng thấm
thía khi nhận lời khen từ một bác nông quê gặp tình cờ tại đám tang cậu Bốn
tôi ở làng Đại Hòa hồi năm ngoái. Ông ôm tôi cười xoà rồi xô ra ngắm nghía:
“Bây giờ mày bảnh quá, không ai nhận ra thằng nhỏ đen đúa loi ngoi trên đồng
ngày xưa nữa. Đừng quên quê mình nghen con!…”. Vâng, có lẽ nhờ những tháng
năm tuổi nhỏ cưỡi bò đi chân đất, lặn ngụp khắp các cánh đồng và các bến
sông quê mà tự trái tim mình tôi đã thấm sâu vị ngọt của quê hương, vị ngọt
của tuổi thơ lấm lem bùn đất để rồi từ ấy bật lên những nụ mầm suốt đời
quyện chặt với đất quê chứ làm sao nói đến chuyện quên quên nhớ nhớ…
Nhưng… “vật đổi sao dời” trải bao năm tháng xa quê, dọc dài trên trăm miền
Tổ Quốc, khi về lại thì mẹ đã già. Lưng còng, Tóc bạc. Quê hương giờ cũng
đổi khác. Ông voi đá như già hơn, những hàng tre, những bến sông bên bồi bên
lở, những rặng cò ke không còn nữa...Tất cả như đã và đang lặng lẽ đi vào
miền cổ tích, nhường chỗ cho những trụ điện bê tông, những cần ăng ten,
những trạm bơm suốt ngày nhả nước... Nhà ông Ba Chữ, ông Đông ở xóm tiện
ngày xưa giờ đã có thêm dàn tiện mới, không phải loại đạp bằng chân để tiện
những chiếc vụ của thuở nhỏ, mà được lắp mô tơ điện với công suất mỗi ngày
có thể cho ra hàng trăm món hàng lớn.
Mọi
cái bây giờ đối với tôi cứ nao nao là lạ. Cây me, khóm thị gần lăng Võ Tánh
không còn nữa, và những vườn mít, vườn xoài tượng quanh Văn Miếu “táng xoè
hơn mẫu đất” cũng đã bị cưa, bán cho xóm tiện làm cỗ bồng, làm cối chày, làm
thớt từ lâu. Nguyên vẹn với tuổi nhỏ của tôi giờ chỉ còn đồi tháp Phú Lốc,
tháp Cánh Tiên sừng sững dưới nắng, là ngôi chùa với ông Đen, ông Đỏ cao
lớn tự thuở nào….
Tuổi
nhỏ rong chơi, tôi chưa biết gì về lịch sử, về những giá trị mà bao triều
đại đã để lại, giờ càng thấm thía dư vị ngọt ngào của dòng sữa quê hương. Nó
sẽ mãi chảy trong tôi, con gái tôi và bao nhiêu thế hệ nữa.
Từ
mỗi bờ tre rặng duối trên con đường làng hay ngõ những ngôi nhà lá mái, đến
Bến Mi Lăng, Bến Gỗ, bến sông quê; từ tượng Chim Thần Garuđa mang phong cách
Tháp Mẫm đến con voi nơi Hoàng Thành hay con lân Văn Miếu; từ những vũ nữ
nơi tháp Cánh Tiên hay trên những sản phẩm của làng tiện làng đúc; từ chiếc
hồ bán nguyệt mới khai quật trong Tử Cấm Thành hay ao sen làng Nhạn Tháp; từ
những đêm hò giã gạo đến những đêm hội bài chòi, hát xuân, hát án… tất cả
cứ rõ dần, rõ dần, lung linh trong nắng xuân như một sự bừng tỉnh sau giấc
ngủ dài… Ngày mai! Hy vọng một ngày mai, nói như ai đó, quê tôi sẽ được
cả thế giới tìm đến!
Đầu xuân 2005
Mai Thìn