Tôi viết bài này với mong muốn được ông và các đệ tử của ông xem. 
Những hành giả đang tu tập theo pháp môn thiền định hãy thông qua trường
 hợp của ông làm bài học tránh lạc lối đi vào con đường tà đạo. 
           
Việc ông Duy Tuệ sử dụng pháp Phật rồi phủ nhận Pháp Phật… các bạn 
có thể vào trang web của ông để thấy rõ, nhất là những bạn đọc đã khá 
thông hiểu về thuyết lý nhà Phật.
 
Trong bài viết này tôi xin được nêu rõ vì sao một người đã từng 
hành thiền lại nghiên cứu Phật pháp như ông Duy Tuệ lại bị sai đường lạc
 lối vào con đường tà đạo.  
 
Thông qua những điều ông nói, ông viết phải công nhận một điều 
rằng, nó cũng khá hợp lý, logic…và rất dễ quy phục được giới tri thức 
những nhà nghiên cứu chưa trải qua tu hành thiền định, niệm Phật…
 
Nếu đọc kỹ ba điều trải nghiệm lớn trong cuộc đời của ông Duy Tuệ 
ta thấy, ông là đệ tử của pháp môn tu thiền. Ông đã bước vào ngưỡng cửa 
sắc ấm, thọ ấm. Điều kết luận trên của tôi thông qua từ kinh nghiệm hành
 thiền và nghiên cứu Kinh Thủ Lăng Nghiêm mà thấy được.
 
Bài viết này tôi sẽ sử dụng kinh Thủ Lăng Nghiêm để nói về hiện 
tượng của ông cũng như những tư tưởng, thuyết lý xuất hiện trong đầu ông
 sau khi ông đạt mức ấn chứng nhất định từ thiền định. Thông qua bộ Kinh
 Thủ Lăng Nghiêm chúng ta sẽ thấy những điều Đức Phật nói cách đây 2555 
năm vẫn chính xác từng câu, từng chữ cho những vị hành giả gặp phải 
chướng ngại trên con đường tu thiền.
           
Kinh Thủ Lăng nghiêm được cho là xương sống của những người hành 
thiền. Nó cho các hành giả  biết được họ sẽ gặp những cảnh giới nào và 
những chướng ngại nào khi phá sắc, thọ, tưởng, hành, thức để thâm nhập 
vào pháp giới tiến về Cửa không.
 
Tôi nghĩ rằng, nếu ông Duy Tuệ có một người thầy tốt, hoặc ông hiểu
 sâu sắc về Kinh Thủ Lăng Nghiêm ông sẽ không bị lạc lối vào con đường 
ma đạo như hiện nay.  
 
Những biểu hiện bước đầu khi phá sắc ấm của ông đó là : Ông đã nghe
 được âm thanh từ tánh nghe. Khi vào được tánh nghe (vào được dòng nhĩ 
căn viên thông)  các thiền sinh thường nghe âm thanh Aum, Aum…. Với những người niệm Phật thì họ sẽ nghe được danh hiệu Phật như:  Nam Mô A Di Đà Phật…, hoặc A Di Đà Phật….
 
Còn ông, có lẽ do đắc tâm 2 chữ “Hay thay” trong kinh Pháp 
hoa nên ông nghe được từ này. Ông đã  nhìn thấy được (có thể chỉ là 
thoáng qua) hào quang của ánh sáng chân tâm, tức là nhìn được cái thấy…
 
Nhưng những cảnh giới ông thấy được, trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm Đức Phật đã chỉ rõ “Đó
 chỉ  là trạng thái tạm thời không phải là chứng Thánh. Nếu không khởi 
tâm cho rằng mình chứng Thánh thì gọi đó gọi là cảnh giới tốt. Còn nếu 
nghĩ rằng mình là bậc Thánh, liền rơi vào tà ma”.
 
Thực tế, các thiền sinh chứng được cảnh giới đó là do “Tứ đại 
không kết hợp trong một thời gian ngắn, tâm có thể ra khỏi các ngăn 
ngại, ấy gọi là tinh minh trào ra tiền cảnh. Đó chỉ là do công dụng tạm 
thời được như thế . Không phải do chứng bậc Thánh”.
 
Nếu ông tiếp tục hành thiền và không chấp vào bất kỳ một cảnh giới 
nào thì quá trình vượt sắc, thọ, tưởng, hành, thức của ông sẽ được tiếp 
tục. Nhưng do cầu vọng quá nhiều nên ông đã gặp ngay chướng ma sắc ấm 
thứ 10 gọi là vọng kiến và vọng thuyết. Theo HT. Tuyên Hoá thì cảnh giới
 này gọi là:
 
“Tà tâm bất chính bị loài ly mỵ hoặc thiên ma nhập vào, vô cớ giảng pháp thông suốt diệu lý…Khi  Tâm
 tà không chánh, loài ly mỵ hoặc thiên ma nhập vào tâm ông, ông sẽ giống
 như những người tự xưng là biết nói Pháp, tự xưng là biết giảng Kinh, 
tự xưng là đã khai ngộ, tự xưng là bậc trưởng lão. Những người này không
 duyên cớ gì lại biết thuyết pháp, và tự chính họ cũng không biết mình 
nói điều gì nữa. Họ nói rằng họ đã thông đạt diệu nghĩa (của Phật Pháp) 
nhưng thật ra không phải là diệu nghĩa hay thông đạt gì hết. Họ cho rằng
 thuyết pháp nhưng thật sự không phải là thuyết pháp. Họ đã lấy điều 
sai, cho là đúng rồi tuyên bố rằng Pháp của họ là vi diệu. Họ tự khen 
mình và hủy báng người, tự xưng mình là đệ nhất, là trưởng lão.”
 
Trường hợp của ông Duy Tuệ không những bị chướng ma sắc ấm mà còn 
bị gặp chướng ma thọ ấm. Tâm trạng vui sướng đến mê mẩn khi ông tiếp cận
 được các cảnh giới lạ trong khi hành thiền là ma thọ ấm. Đức Phật đã 
nói rằng:
 
“Lại nữa A Nan, người thiện nam kia, khi ở trong trạng thái định
 này thấy sắc ấm tan rã, hiểu rõ thọ ấm. Lúc ấy cảnh giới thù thắng hiện
 ra, cảm kích quá phần. Trong trạng thái như thế, bỗng sanh dõng mãnh vô
 hạn, tâm quá mạnh mẽ, cho mình bằng Phật, nói có thể vượt qua ba 
a-tăng-kỳ kiếp chỉ trong một niệm”.
 
“Lại nữa, hành giả khi ở trong định, thấy sắc ấm tiêu trừ, nhận 
rõ thọ ấm. Khi ở trong chốn thanh tịnh, tâm được an ổn. Bỗng nhiên phát 
sanh niềm vui vô hạn trong tâm, không thể kềm chế được….Nếu cho mình đã 
chứng Thánh, thì có loài ma thích vui (háo hoan hỷ ma) sẽ nhập vào tâm. 
 
“A Nan! Người thiện nam kia, khi ở trong trạng thái như thế, cảm
 nhận một ánh sáng rực rỡ, trong tâm sinh khởi một loại cảm xúc. Do bên 
trong đè nén quá phần, bỗng dưng phát khởi lòng thương xót vô hạn, đến 
nỗi xem muỗi mòng như là con đỏ. Tâm sanh trắc ẩn, bất giác rơi lệ”.
 
Đọc những đoạn ma chướng trong 20 ma ấm khi vượt qua sắc ấm, thọ ấm
 trên không biết ông Duy Tuệ có thấy giống trạng thái của mình khi đang 
ngồi hành thiền không. Nếu ông nhận ra được nó thì coi như là một cảnh 
giới tốt còn nếu ông coi  mình đã chứng Thánh thì các loại ma ngũ ấm sẽ 
nhập vào tâm ông. Có lẽ vì không nhận ra điều đó nên ông bị ma cuồng 
vọng đã nhập vào tâm ông đúng như Kinh Thủ Lăng Nghiêm, đức Phật đã nói:
 
“Lại nữa, hành giả khi ở trong định, thấy sắc ấm tiêu 
trừ, tỏ rõ thọ ấm. Tự bảo là đã đủ rồi. Bỗng nhiên, vô căn vô cớ, có tâm
 đại ngã mạn phát sanh; cho đến tâm kiêu mạn, tâm mạn quá mạn, tâm tăng 
thượng mạn, hoặc ty liệt mạn đều cùng phát ra một lúc. Trong tâm khinh 
thường mười phương các Đức Như Lai, huống nữa là những quả vị thấp như 
Thanh Văn, Duyên Giác”.
 
Trạng thái này trong hành thiền được gọi là tự xem mình quá cao “Nhưngthiếu trí huệ để tự cứu mình”.Theo HT. Tuyên Hoá thì “ Nếu nhận ra thì không có lỗi. Nếu nhận ra đây là sai lầm thì ma sẽ không có dịp phát huy tác dụng”. Nên nói: Giác tức không mê, mà khi mê tức là không giác. 
 
Thực sự, chúng sinh đều có tánh Phật, nhưng phải nhờ công phu tu 
tập mới nhận được ra Phật tánh. Ngay cả khi quyết tâm tu hành, cũng 
không thể trở thành Phật chỉ trong một niệm mà phải cần thời gian rất 
lâu xa. Theo HT. Tuyên Hoá thì khi “Người ấy tu hành nhưng không được
 Thiện tri thức hướng dẫn chỉ dạy mà tự mình lại không có trí huệ; cho 
nên, dù có tu tập cần khổ, tinh tấn cho mấy đi nữa, ông ta chỉ tăng 
trưởng tà tri tà kiến mà thôi. Tự thấy rằng trải qua một thời gian tu 
tập lâu dài như vậy mà không thành Phật, nên tuyên bố mình là Phật, nói 
là mình đã thành Phật rồi. Đây là tình trạng “sánh mình bằng Phật”. Tình
 trạng này xảy ra khi thọ ấm tan rã. Y nói rằng y đồngnhư chư Phật. Thực
 ra chỉ một niệm sai lầm đó, ông ta đã bị ma nhập vào.”
 
Để vượt qua được chướng ngại này khi phá thọ ấm, HT.Tuyên Hoá cho rằng chỉ cần “nhận
 rõ đó là ma thọ ấm và duy trì sự sáng suốt, lâu dần trạng thái ấy sẽ tự
 tiêu mất. Nhưng nếu nghĩ mình là Thánh thì sẽ liền bị ma cuồng ngông nhập vào tâm. Quý vị
 thấy đó, nếu quý vị không nhận biết năm mươi trạng thái ngũ ấm ma, thì 
làm sao mà quý vị thành Phật được? Loại ma này là loại ma ngông cuồng, 
cống cao, ngã mạn. Khi nó len luồng vào tâm ông, chiếm hữu ông, nó tống 
khứ linh hồn của ông ra ngoài, thay vào đó là “ma vương tại đường”, ma 
vương thay thế và trở thành linh hồn của quý vị”. 
Việc bài bác nhân quả của ông Duy Tuyệ cũng không có gì là lạ. Khi 
ông đã bị chướng ngại ma ấm trong quá trình hành thiền thì khó có thể 
hiểu đúng chánh pháp của Phật đạo. Trong mười ma thọ ấm sau khi phá được
 sắc ấm, Kinh Thủ Lăng nghiêm có ghi: 
 
“ Lại nữa, hành giả khi ở trong định, thấy sắc ấm tiêu trừ, nhận
 rõ thọ ấm. Trong chỗ tỏ ngộ đạt được tánh hư minh. Trong ấy, hành giả 
bỗng dưng có khuynh hướng đoạn diệt, bài bác nhân quả, cho mọi việc đều 
là không. Tâm chấp không chi phối mạnh mẽ, khiến hành giả có kiến giải 
rằng: Sau khi chết hoàn toàn đoạn diệt. Đây gọi là “Định tâm phân tán mất đi sự chiếu diệu tương ưng”. Nếu rõ biết được thì không lỗi lầm. Đó không phải là chứng Thánh quả”.
 
Trong Phật giáo, việc tự nhận mình đã chứng Thánh tự coi mình là 
Phật bài bác các thuyết lý Nhà Phật được cho là tội đại vọng ngữ sau khi
 mất thân nghiệp sẽ bị đoạ vào ngục Vô gián. Không biết ông Duy Tuệ có 
biết điều này không ?
 
‘Chúng sanh ngu mê, không biết suy xét tự lượng. Gặp nhân duyên 
này, mê không tự biết, nói là chứng Thánh, thành tội đại vọng ngữ, phải 
đọa vào địa ngục Vô Gián’. 
 
Đối với các thiền sinh, do nghiệp trong quá khứ nên họ thường gặp 
những ma chướng trong quá trình hành thiền. Trong một số trường hợp tôi 
biết thì họ chỉ gặp một đến hai chướng ngại sau khi phá được sắc ấm, thọ
 ấm. Trường hợp của ông Duy Tuệ, đối chiều với Kinh Thủ Lăng nghiêm tôi 
thấy ông bị gặp khá nhiều những ma chướng khi mới bước vào ngưỡng cửa 
phá sắc ấm, thọ ấm. Tôi thật sự tiếc cho ông, một người nghiên cứu Phật 
giáo khá sâu, kiên trì hành thiền trong thời gian dài lại gặp nhiều 
chướng ngại như vậy. Gía như ông có một vị Thầy – Vị Thiện tri thức giúp
 đỡ thì ông sẽ không bị rơi vào con đường tà đạo như hiện nay.
 
Một điều thấy rõ nơi ông đó là trí biện thông (trí tuệ thế 
gian)phát triển rất mạnh do kết quả từ việc hành thiền. Chính ông cũng 
không ngờ là ông có thế đối đầu với bất kỳ câu hỏi và sự chất vấn nào 
của mọi người. Nhưng có lẽ chính ông cũng không ngờ rằng, cái trí Biện 
thông đó  lại đang phản lại ông. Nó đang đẩy ông vào sự rối loạn của 
những tri thức mà ông đã tiếp nhận được. Nó chính là bát nạn (tám chướng
 ngại) cản trở các hành giả tiến sâu vào thiền định   
 
Nếu ông tiếp tục hành thiền và không chấp vào bất kỳ điều gì, cảnh 
giới nào diễn ra trong tâm mình thì ông sẽ thấy, hành thức (phần phân 
tích, bình luận…)sẽ bắt đầu đông cứng lại, trực giác sẽ phát triển và 
trí bát nhã sẽ hiện tiền. Đó mới chính là trí tuệ của Phật giáo. Lúc đó,
 ông sẽ tỏ thông rất nhiều điều trong Kinh điển mà đức Phật đã thuyết. 
Con đường chánh đạo vẫn tiếp tục. Nếu ông tự cho mình đã chứng ngộ thì 
ông sẽ rơi ngay vào ma đạo, tà đạo.
 
Một lời khuyên chân thành, khi mọi việc còn chưa quá muộn, xin ông 
hãy dừng lại, hãy sám hối và tiếp tục hành thiền. Chặng đường giải thoát
 còn xa vời vợi. Nếu ông  không tỉnh giác sẽ rơi vào địa ngục.
 
Nam Mô Bổ sư Thích Ca Mầu Ni Phật !  
Trong thời điểm hiện nay, có không ít những đạo sư giống như ông 
Duy Tuệ đã sử dụng thuyết lý Phật giáo để thuyết pháp. Họ thường là 
những người có một chút  dụng công tu hành nên trí biện thông phát triển
 rất mạnh. Để phân biệt đâu là Phật đạo, đâu là ma đạo. Cở sở nào giúp 
chúng ta phân biệt được điều đó, tôi xin được tiếp tục chuyển đến bạn 
đọc phần hai bài viết Phật biệt Phật đạo và ma đạo.