Biến đổi xã hội, đối tượng
nghiên cứu của công trình nói trên, gồm biến đổi tôn giáo. Với khu vực địa lý
nghiên cứu là các nước và vùng lãnh thổ ở Đông Bắc Á (Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn
Quốc, Đài Loan), biến đổi tôn giáo đương nhiên bao gồm Phật giáo, tôn giáo
chính yếu của khu vực này.
Công trình nghiên cứu
này xác định biến đổi xã hội là một vấn đề quan trọng trong phát triển đất nước.
Các nước Đông Bắc Á,
trong quá trình phát triển, đã có những biến đổi xã hội quan trọng. Do việc gần
gũi về văn hóa, địa lý, cũng như có các mối liên hệ sâu đậm, nghiên cứu về biến
đổi xã hội và những đối sách cho vấn đề này ở các nước nói trên đã được xác định
là cần thiết, có giá trị tham khảo đối với Việt Nam.
Khi nghiên cứu về những
biến đổi xã hội ở Trung Quốc, đi sâu vào biến đổi trong đời sống tôn giáo, công
trình “Đối sách của các quốc gia và vùng
lãnh thổ ở Đông Bắc Á về những biến đổi xã hội” đã có những ghi nhận rất
đáng lưu tâm:
“Biến đổi trong đời sống tôn giáo
Quá
trình đô thị hóa nhanh chóng, sự thăng trầm của các nền kinh tế trong điều kiện
hội nhập quốc tế tăng nhanh với cường độ cao cùng với những cải cách về cơ chế
quản lý của nhà nước… đã tạo ra những biến đổi nhất định trong đời sống tôn
giáo, tín ngưỡng của các quốc gia trong khu vực Đông Bắc Á.
Tại
Trung Quốc, trong điều kiện kinh tế thị trường, tôn giáo có xu hướng thế tục
hóa và đạo Tin Lành có chiều hướng phát triển mạnh hơn. Theo quan niệm đối lập
tôn giáo với chủ nghĩa vô thần, tôn giáo hầu như bị cấm tại Trung Quốc trong
giai đoạn 1966-1979. Trong hơn 3 thập kỷ vừa qua, nhờ thành công của công cuộc
cải cách và mở cửa, nền kinh tế Trung Quốc phát triển nhanh chóng chưa từng thấy,
kéo theo sự phát triển của quá trình đô thị hóa và dịch chuyển dân số từ nông
thôn ra thành thị. Tôn giáo truyền thống có nhiều biến động. Nếu trước đây, các
tổ chức tôn giáo truyền thống như Phật giáo và các giáo hội Ki tô giáo hoạt động
trầm lắng thì hiện nay có xu hướng khởi sắc trở lại. Nhiều chùa chiền, nhà thờ
cũng như các cơ sở thờ tự nói chung được tu sửa, xây mới ở nhiều nơi trên cả nước.
Các tổ chức tôn giáo mới bao gồm cả một số tôn giáo đã từng xuất hiện trong thời
gian trước đây nay bùng phát trở lại. Điểm nổi bật trong diện mạo đời sống tôn
giáo Trung Quốc hiện nay là xu hướng thế tục hóa ngày một mạnh mẽ và sự phát
triển của đạo Tin Lành có xu hướng tăng nhanh.
Sau
khi Trung Quốc thực hiện công cuộc cải cách mở cửa, dưới sự tác động của kinh tế
thị trường, tiến trình thế tục hóa của tôn giáo Trung Quốc có những biểu hiện
như sau:
Thứ
nhất, chú trọng đến đời sống hiện thực nhưng không từ bỏ tín ngưỡng. Do tác động
của đời sống kinh tế hàng hóa và trình độ văn hóa được nâng cao nhất định mà đa
số các tín đồ đều không chỉ theo đuổi quan điểm kiếp sau hư ảo mà còn chú trọng
hơn tới việc đứng chân trong thế giới hiện thực. Người ta cho rằng, trong kiếp
sống hiện thực, con người đã có thể cải thiện đời sống của mình khi sống, cần
phải đi tìm hạnh phúc tốt đẹp hiện thực, để khi lên được thiên đàng, đến Niết
bàn hưởng thụ những gì không có trong cuộc sống trần gian. Đó là triết lí: “là
tín đồ tôi mong đi vào thiên quốc, là người tôi mong đất nước giàu mạnh”. Có thể
thấy, đó là một triết lý sống lành mạnh.
Thứ
hai, hướng tới đời sống thế tục, nhiệt tình với đời sống thế tục. Tín đồ Ki tô
giáo sống đời sống thế tục là điều dễ thấy và dễ hiểu. Ngay cả tín đồ Phật giáo
cũng thay đổi lối sống rất nhiều. Không ít nhà sư có cuộc sống không khác các
quan chức thế tục. Ngoài việc cắt tóc, ăn chay, niệm Phật ra, họ cũng đủ xe
hơi, điện thoại di động, thảm trải, điều hòa nhiệt độ… Nhiều Phật tử có lương cố
định từ công việc nhà chùa, những người chuyên cần với công việc nhà Phật còn
có tiền thù lao. Các tôn giáo đều nhiệt tình với công tác xã hội thế tục, đua
nhau mua tín phiếu kho bạc, tích cực quyên tiền cho các công ty hy vọng, bỏ tiền
tài trợ xây dựng sân bay, mở đường sắt.
Trong
làn sóng kinh tế thị trường, Phật giáo và Ki tô giáo tỏ ra rất linh hoạt. Dưới
danh nghĩa “tự nuôi mình”, Ki tô giáo tìm cách lập ra các thực thể kinh tế. Có
nơi, tín đồ lập “xí nghiệp tam tự”, “Cửa hiệu tam tự”, “Bệnh viện Tam tự”. Có
giáo hội mở các ngành dịch vụ công thương nghiệp, mốc nối với ngân hàng, thành
lập các đại lí tích tiền…
Phần
lớn chùa chiền đều được xây dựng trong rừng rậm, núi cao, phong cảnh tuyệt đẹp.
Phật điện, bảo tháp, kiến trúc, thơ và câu đối… đều có giá trị văn hóa thu hút
khách du lịch… Những điều đó đã khiến đền chùa ở Trung Quốc trở thành những điểm
thu hút khách du lịch trong và ngoài nước. Có chùa còn mở cả phòng trà, khách sạn,
quán ăn… như một xã hội thu nhỏ tổng hợp. Vé vào cửa chùa cùng với các dịch vụ
dành cho khách du lịch là những khoản thu nhập khá lớn. Chốn cửa thiền xưa kia
thâm nghiêm, các nhà sư vốn lấy cuộc sống thanh bần làm cao cả, nay trở thành
nơi huyên náo, những kẻ tu hành trở thành những người làm ăn chạy theo lợi nhuận…
Tôn
giáo Trung Quốc vẫn tiếp tục duy trì được chức năng xã hội vốn có của nó là coi
trọng tình cảm con người và giáo dưỡng đạo đức xã hội, song xu hướng thế tục
hóa nói trên, tuy là xu hướng có tính thế giới, nhưng không khỏi ảnh hưởng phần
nào đến các giá trị truyền thống của tôn giáo Trung Quốc.
Công
cuộc cải cách mở cửa đã đem lại một diện mạo mới cho xã hội Trung Quốc. Trong
hoàn cảnh đó, tôn giáo Trung Quốc cũng bắt đầu phục hưng. Theo đánh giá của các
học giả nghiên cứu về tôn giáo Trung Quốc thì đạo Tin Lành là một thành tố nổi
trội trong quá trình phục hưng tôn giáo nói chung sau cải cách mở cửa tại đất
nước này.
Việc
thống kê lượng tín đồ Tin Lành ở Trung Quốc hiện nay là một công việc khó khăn
và kết quả thu được thường khó sát với thực tế. Các công trình nghiên cứu về
tôn giáo Trung Quốc cho thấy, con số tín đồ hàng năm do tổ chức Tam tự công bố
rất khác biệt so với số liệu của các tổ chức hải ngoại. Nguyên do là tổ chức
Tam tự chỉ thống kê dựa trên những số liệu chính thức của các tổ chức Tin Lành
hoạt động có đăng ký với chính phủ. Trong khi đó, trên thực tế lại tồn tại một
lượng rất lớn những tín đồ Tin Lành hoạt động không đăng ký thường gọi là tín đồ
“tại gia”. Theo công trình Tông giáo ở Trung Quốc của tác giả Lữ Vân thì Tin
Lành ở Trung Quốc tăng nhanh từ những năm 1980, từ 3 triệu người năm 1982 lên 4
triệu người năm 1989. Vào năm 1993, theo một nghiên cứu của Hunter và Chan, con
số 5 triệu tín đồ chính thức là không khớp với khoảng 20 triệu hoặc hơn thế
trong thực tế. Theo công bố gần đây của Tam tự thì tính đến năm 2000, trên lãnh
thổ Trung Quốc có 13.000 giáo hội, 35.000 điểm hội họp và 15 triệu tín đồ. Như
vậy, nếu gộp cả số tín đồ “tại gia” thì con số sẽ lớn hơn rất nhiều. Trong vài
năm gần đây, Chính phủ Trung Quốc cũng tiến hành thống kê số lượng tín đồ và ước
tính con số này dao động từ 25 đến 30 triệu người. Có ý kiến cho rằng con số có
thể lên đến 50 triệu người.
Từ
thực trạng này, các nhà nghiên cứu đánh giá:
Thứ
nhất, sự phát triển của đạo Tin Lành tại Trung Quốc từ thập niên 90 của thế kỷ
trước đến nay diễn ra khá đột biến. Điều này đã dẫn đến sự đảo nghịch về tỷ lệ
tín đồ giữa Tin Lành và công giáo so với thời kỳ trước đó và sau này. Hiện nay,
số lượng tín đồ Công giáo ở Trung Quốc có khoảng 10 triệu người. Vào khoảng những
năm 50 của thế kỷ trước, con số này là khoảng 3 triệu người, trong khi số lượng
tín đồ Tin Lành mới có khoảng 700.000 đến 1 triệu.
Thứ
hai, sự phân chia thành bộ phận: các giáo hội có quan hệ với Tam tự và các cộng
đồng tự quản chỉ có ý nghĩa tương đối vì trong thực tế, các tín đồ của hai bộ
phận này vẫn có liên hệ với nhau và ranh giới rất không rõ ràng.
Hiện
nay, toàn Trung Quốc có 13 chủng viện thần học ở các vùng khác nhau với lượng học
viên khoảng 700 người. Tại Nam Kinh tỉnh Giang Tô, Trường Cao đẳng Thần học Hiệp
hội Nam Kinh là trường Thần học quốc gia được Ủy Ban Phong trào Yêu nước Tam tự
của Giáo hội Tin Lành Trung Quốc thành lập năm 1952 khi có 12 chủng viện và trường
Thánh kinh Tin Lành hợp nhất với nhau. Năm 1961, Chủng viện Thần học Hiệp hội
Diên Khánh được nhập vào đó. Trường có nhiệm vụ đào tạo các giáo sĩ phù hợp với
nguyên tắc Tam tự, các giáo sĩ yêu nước, các giáo viên thần học, các nhà nghiên
cứu thần học và tôn giáo, các nhà hoạt động chuyên nghiệp có khả năng giảng dạy
thần học, âm nhạc và nghệ Ki tô giáo, những người trung thành với lý tưởng Tin
Lành và ủng hộ chủ nghĩa xã hội. Chủng viện có thái độ tôn trọng các giáo phái
Tin Lành khác nhau, kết hợp văn hóa truyền thống Trung Quốc với tất cả những mặt
đó, giúp xây dựng một nền thần học Tin Lành Trung Quốc. Từ năm 1980 đến năm
1991 đã có hơn 300 chủng sinh tốt nghiệp được cử đến làm việc tại các nhà thờ
trong toàn quốc. Ngoài ra còn có 12 trường thánh kinh địa phương ở các thành phố
Bắc Kinh, Thẩm Dương, Thượng Hải, Hàng Châu, Phúc Châu, Tế Nam, Hợp Phì, Vũ
Hán, Quảng Châu, Tây An, Thành Đô và Côn Minh.
Thứ
ba, vấn đề giáo hội và Nhà nước trong cộng đồng Tin Lành ở Trung Quốc khá phức
tạp. Có một thực tế là nhiều tín đồ Tin Lành tại Trung Quốc chọn cách sinh hoạt
tự quản, khép kín mà không đăng ký công khai. Các học giả phương Tây cho rằng
do sự kiểm soát gắt gao của nhà nước khiến nhiều tín đồ Tin Lành rời bỏ các
giáo hội công khai (có đăng ký) để đến với các giáo hội tại gia. Điều này cũng
có nghĩa là khi xuất hiện tình thế đối đầu với chính phủ thì các tổ chức Tin
Lành có một lực lượng hậu bị thực tế lớn hơn nhiều so với danh nghĩa” (trang
61-67, sách đã dẫn).
Tình hình được ghi nhận
như trên có rất nhiều điểm để chúng ta đáng lưu ý.
Trước hết, Phật giáo
Trung Quốc được ghi nhận là có sự phục hưng, nhưng cùng theo đó là những biểu
hiện không lành mạnh, và mức độ phát triển của Phật giáo Trung Quốc cũng không
được như các tôn giáo khác. Phật giáo Trung Quốc, như thế, là có bước tiến so với
chính mình. Tuy nhiên, nếu so sánh trong bức tranh tổng thể tôn giáo ở Trung Quốc,
thì lại thấy bước lùi ở Phật giáo.
Phật giáo Trung Quốc biến
đổi theo hướng hủ bại, tha hóa, thế tục hóa, đánh mất những giá trị tinh thần
thiêng liêng, chạy theo những giá trị vật chất trước mắt, kinh doanh hóa,
thương mại hóa…
Những điều đó đang diễn
ra trong bối cảnh đạo Tin Lành phát triển mạnh ở Trung Quốc. Sự bùng phát đạo
Tin Lành đã tạo nên nét chính trong bức tranh tôn giáo ở Trung Quốc. Tình hình
này đương nhiên tạo nên áp lực cho tất cả các tôn giáo khác ở Trung Quốc, trong
đó có Phật giáo.
Phật giáo Trung Quốc phải
đối mặt với thách thức đến từ bên trong, là sự hủ hóa tự thân, và thách thức đến
từ bên ngoài, áp lực cải đạo do Tin Lành mang đến.
Điều bi đát là Phật
giáo Trung Quốc lại không nhận thức về hiểm họa này, mà có vẻ vẫn tăng tốc trên
con đường thế tục hóa. Tình hình được ghi nhận như trên là hết sức bi quan đối
với Phật giáo Trung Quốc. Thế tục hóa đồng nghĩa với diễn biến suy thoái, thiểu
số hóa, khủng hoảng lòng tin…
Công trình nghiên cứu của
Viện Nghiên cứu Đông Bắc Á, qua ghi nhận tình hình như trên, đã nói đến một khả
năng rất đáng lưu tâm, là khả năng “xuất
hiện tình thế đối đầu với chính phủ” và nhất là khi xuất hiện tình thế này
“thì các tổ chức Tin Lành có một lực lượng
hậu bị thực tế lớn hơn nhiều so với danh nghĩa”.
Tin Lành Trung Quốc rõ
ràng là lớn mạnh, Phật giáo Trung Quốc đang bị thế tục hóa. Tình thế đó dẫn đến tình thế đối đầu giữa
Tin Lành với chính phủ Trung Quốc. Và nghiêm trọng hơn cho chính phủ Trung
Quốc, lực lượng Tin Lành, trong thế mạnh lên, vẫn duy trì ẩn số bí hiểm về thực
lực, tức là không thể biết mạnh đến mức nào!
Công trình nghiên cứu “Đối sách của các quốc gia và vùng lãnh thổ ở
Đông Bắc Á về những biến đổi xã hội”
ngay trong phần đầu, đã lưu ý về sự gần gũi và tương đồng giữa các quốc
gia và vùng lãnh thổ Đông Bắc Á đối với Việt Nam: “Do sự gần gũi về địa lý, sự tương đồng về văn hóa và sự phát triển các
mối quan hệ giữa Việt Nam và các nước Đông Bắc Á nên đối sách của các quốc gia
này trong bối cảnh mới sẽ có những tác động đến Việt Nam. Vì vậy, việc tìm hiểu
những đối sách mà chính phủ các nước Đông Bắc Á thực thi trước những biến đổi
xã hội để gợi mở những vấn đề về kinh nghiệm mà Việt Nam có thể tham khảo, vận
dụng trong quá trình xây dựng và phát triển xã hội là một việc làm cần thiết”.
Vì vậy, tình hình tôn
giáo ở Trung Quốc, trong đó có Phật giáo, với những biểu hiện như đã ghi nhận,
là rất đáng lưu tâm, đối với từ tăng ni Phật tử, hàng giáo phẩm Phật giáo, cho
đến giới nghiên cứu tôn giáo, khoa học xã hội, và cả đối với quan chức chính
quyền.
(1)
Sách có bản in rất hạn chế, 300 bản phát
hành toàn quốc, tuy nhiên rất hữu ích vì có nhiều tư liệu quý.