Anh hướng dẫn viên cứ huyên thuyên
hết tên núi này đến núi nọ, nhưng theo anh bảy ngọn núi chính đó là:
núi Anh Vũ Sơn (núi Két) có một mỏm đá khá lớn giống hình mỏ két; Ngũ Hồ
Sơn (núi Dài năm giếng); núi Liên Hoa Sơn (núi Tượng) với dáng dấp một
chú voi; núi Cấm hay núi Gấm là do vẻ đẹp núi mây đã tạo nên dải gấm
tuyệt sắc nên có tên gọi mỹ miều Thiên Cẩm Sơn; núi Thủy Đài Sơn (núi
Nước); núi Ngọa Long Sơn (núi Dài/Giài), núi có chiều dài tới 8.000 cây
số; núi Phụng Hoàng Sơn (núi Tô/ Cô Tô hay Ông Tô) có hình dạng như cái
tô lật úp. Kết thúc, anh lưu ý: Nói là Thất Sơn, Bảy Núi nhưng còn nhiều
núi nữa nghe, có ngọn núi tên nghe ngộ lắm: Núi Trà Sư có lẽ có ông sư
trồng trà, trồng chè gì đó chẳng biết. Còn núi Bà Đội Om có dáng như
người đàn bà đội cái om trên đầu...
Tượng Phật Di Lặc (Thiền viện Phật Lớn)
"Đã nói Bảy Núi là phải nói Năm Non", bác tài - một
người dân nơi đây, nói chen vào. Anh liền nhanh miệng cho biết thêm
rằng: Non là những vồ đá lớn nằm cao lên trơ trọi một mình. Năm non đều
nằm trên Núi Cấm. Đó là Vồ Bà, Vồ Ông Bướm, Vồ Đầu (Vồ Trăm Họ), Vồ
Thiên Tuế (có rất nhiều cây Thiên Tuế), Vồ Bồ Hong là non cao nhất của
đỉnh núi Cấm...
Núi Cấm gắn liền với khá nhiều truyền thuyết và tên
gọi được lý giải bằng nhiều tích sự ly kỳ khác nhau nghe chừng rất...
huyền ảo. Có người nói rằng Nguyễn Ánh sau khi thất trận bị quân Tây Sơn
truy nã gắt gao nên đã đến ẩn náu ở núi này. Để khỏi bị lộ, ông đã hạ
lệnh cấm dân chúng vào ra núi này, viện lẽ lắm yêu nhiều thú nguy hiểm.
Do vậy, người gọi là Ông Cấm, tức Vua Cấm. Tên gọi núi Cấm có lẽ do cớ
đó. Lại có người lý sự rằng núi Cấm hoang vu, cây mọc um tùm, núi đá gồ
ghề là nơi ẩn trốn của phường đầu trộm, đuôi cướp, để đảm bảo sự an lành
cho dân chúng vì thế mà cấm vào ra. Cũng có người nói Đức Phật thầy Tây
An tiên tri ngày sau tại đây sẽ có đền vàng điện ngọc của Minh Hoàng
nên cấm đệ tử lui tới để tránh kinh động đến vùng đất thiêng này. Đến
thế kỷ XIX, còn được biết đây là ngọn núi báu, thiêng đệ nhất hạng đối
với tín đồ của đạo Bửu Sơn Kỳ Hương. Ngọn núi cao nhất Thất Sơn được
giáo thuyết của tôn giáo này xác định là địa điểm Phật Di Lặc sẽ giáng
thế lập Hội Long Hoa, mở cuộc phán xét cuối cùng nhằm khai mở kiếp đời
Thượng ngươn mới đầy phúc lạc. Lúc đó, núi báu (bửu sơn) sẽ tỏa ra hương
thơm kỳ lạ (kỳ hương) như một điềm triệu báo cho chúng sanh xa gần
biết...
Chùa Vạn Linh
Núi Cấm là ngọn núi hùng vĩ của quần thể núi non Thất
Sơn nên được coi là đỉnh thiêng trung tâm thông linh của trời-đất. Từ
"Cấm" ở đây hàm nghĩa thiêng liêng tôn kính là vậy. Đường lên núi Cấm
vòng vèo, một bên là núi, một bên là vực, cây cối xanh um, mây uốn gió
lượn. Nhìn xuống là những ô vuông ruộng xanh xanh to nhỏ cùng những đầm
nước lóng lánh hắt lên ánh vàng của nắng. "Những ngày không mây, đứng từ
trên đây ta sẽ thấy được biển Hà Tiên nơi xa kia", anh hướng dẫn hào
hứng chỉ. Mọi người nhao nhao "Đâu" "Đâu"... hướng theo tay anh. Nơi đây
còn ưu ái được được đặt cho cái tên Đà Lạt giữa lòng miền Tây hay Đà
Lạt II bởi khí hậu mát mẻ, nắng vàng dìu dịu. Núi Cấm là đây với không
gian trải rộng, mở ra cùng mặt hồ Thủy Liêm lộng gió, cây cầu đỏ điểm
xuyết bắc ngang nơi cuối tầm mắt, những tháp chùa và tượng Phật Di Lặc
"khổng lồ" cùng những hàng quán hoang sơ, ngổn ngang đất đá...
***
Từ mặt đường đất phải đi lên con đường dốc thoai
thoải để lên đến chùa Vạn Linh. Chùa Vạn Linh hay còn gọi là chùa Lá
(tên gọi hoài niệm ngôi chùa xưa - hồi mới khai sơn tạo tự), giờ là ngôi
đại bửu sát nổi bật với ba tòa tháp bên ngoài cao vút với mái cong uốn
lượn.
Bảo Các Quán Âm bảy tầng với tháp Bồ Đề
Đạo Tràng kiểu cách trên nóc cao. Nơi đây thờ các vị Bồ tát tiêu biểu
cho lòng đại từ, đại nguyện, đại trí, đại hạnh, đại bi, đại lực của chư
Bồ tát: Di Lặc, Địa Tạng, Văn Thù, Phổ Hiền, Quán Âm, Thế Chí. Trên cùng
là tượng Đức Bổn sư Thích Ca trong tư thế đang thuyết pháp.
Chánh điện chùa Vạn Linh
Tháp Tổ khai sơn ba tầng với tầng giữa là
nơi an trí cốt của Hòa thượng khai sơn Thích Thiện Quang. Ngài là con
trai duy nhất trong gia đình có bảy con của ông Hương Cả ở tận xứ Bến
Tre. Tục truyền, thuở trẻ trai, Ngài là một người dân bình thường... Một
hôm, trong làng có việc, Hương Quản đánh mõ triệu tập dân chúng. Lúc
đó, Ngài đang dở bữa cơm ra trễ nên bị Hương Quản bắt lỗi cầm dùi đánh
Ngài, Ngài giật dùi đánh lại, xong bỏ về, thu xếp gia đình, khăn gói lên
đường, hướng về Thất Sơn, Châu Đốc lánh thân. Tìm đến núi Két, gặp được
vị sư cho ở lại trị bệnh và sau đó học nghề thuốc. Gần gũi chư Tăng,
tìm hiểu Phật pháp, Ngài nhận ra cảnh đời vô thường nên trong tâm nhen
nhúm chí xuất trần. Thời gian sau thấy yên ổn, Ngài về thăm nhà rồi lại
lên núi tu, suốt nhiều năm như vậy. Vì núi Két gần chợ, Phật tử thăm
viếng thường xuyên, Ngài xin phép lên chùa Phi Lai, núi Kỳ Hương và quy y
tại đây. Năm 1927, Ngài lên núi Cấm, cất am chuyên tu dưới chân vồ Bồ
Hong, gần chùa Phật Lớn. Ngày ngày, Ngài chuyên trì chú Đại Bi và niệm
danh hiệu Đức Quán Âm, thuần thục đến độ khi ngủ vẫn niệm. Sinh thời,
Ngài có hành tung kỳ đặc mà người thường khó biết. Trong chùa, những
việc quan trọng Ngài thường cho biết trước hoặc phát ra những lời huyền
ký rất ứng nghiệm. Một trong những ví dụ tiêu biểu còn ứng nghiệm đến
nay là lời huyền ký về cuộc đời Hòa thượng Vạn Đức Thích Trí Tịnh. Những
người hành hương nơi đây có kể cho tôi nghe rằng Ngài viên tịch sau khi
niệm to đứt quãng: "Nam... mô... A... Di... Đà...Phật" rồi tự nằm ngay
thẳng xuống giường như người nằm ngủ... Trên mặt tháp có ghi bốn câu thơ
của Hòa thượng Thích Trí Tịnh nói về cuộc đời Ngài:
"Thiện tự nội tàng thời hãn ngộ
Quang truyền ngoại hóa thế đa quy
Vạn Linh sơn trụ khai mông muội
Linh Bửu Tây quy hiển thoại tường".
(Thiện ẩn bên trong đời ít biết
Quang độ người ngoài lắm kẻ quy (y)
Vạn Linh ở núi khai mông muội (tăm tối)
Linh Bửu về Tây hiển điềm lành).
Sát bên là tháp chuông bát giác thờ Đức Phật A Di Đà, Bồ tát Quán Thế Âm Thiên thủ thiên nhãn và quả đại hồng chung.
Hồ Thủy Liêm
Bên trong chánh điện là bàn thờ Phật Thích Ca thiền
định với vòng hào quang và vách vẽ trang trí cội bồ đề, hai bên là phù
điêu Đức Quan Âm đứng trên đầu rồng và phù điêu Đức Địa Tạng cưỡi Đề
Thính. Phía trước điện đặt hai phù điêu Hộ pháp và Tiêu diện. Ở hậu
điện, thờ phù điêu Tổ sư Đạt Ma và nơi thờ Tổ.
Các tượng và phù điêu chùa Vạn Linh đều được làm bằng
đá trắng, được chạm khắc công kỹ, đạt trình độ mỹ thuật cao, thần thái
tượng thật sự trang nghiêm.
Hỏi ra mới biết quá trình trùng kiến chùa để được như
hôm nay là một quá trình lâu dài với bao công sức của chư Tăng và Phật
tử tứ xứ. Bởi phải trải qua những khó khăn tưởng chừng như không thể
vượt qua được nên khi có được ngôi chùa trang nghiêm như ngày nay ai
cũng xác tín là nhờ sự độ trì của Thần Phật mọi việc mới thành sự. Trước
là đường mòn xuyên rừng, men theo đá núi ngổn ngang đất, đá và rễ cây,
cứ mỗi mùa mưa là hết sạt lại lở, đi không khéo té chết như chơi. Lần
trùng kiến lần thứ ba là lần lớn nhất, các sư thầy cùng các Phật tử làm
công quả phải tận dụng đất đá nơi đây để làm gạch, đặt móng, cũng như
sàng lấy cát từ con suối, còn tất cả những vật liệu khác đều phải mua từ
dưới xuôi mang vác lên. Rồi từ cái khó đó đã nảy sinh sáng kiến tạo xe
để vận chuyển, mang tượng lên, chế máy phát điện... Tất tất đều huyền
diệu như có sự giúp sức của đấng linh thiêng khế hợp với sự đồng lòng
của bá tánh cũng như niềm tin của các nhà sư về điều chí nguyện để tạo
nên chùa Vạn Linh uy nghiêm giữa núi rừng bạt ngàn.
***
Đi dọc theo hồ, trên con đường lát đá, điểm đến đầu
tiên là tượng Phật Di Lặc/ Bố Đại cao đến 33,6 mét trắng toát sừng sững
đập ngay vào mắt mà khi ở bên dưới chân núi chúng ta có thể nhìn thấy
được mặt lưng nho nhỏ của pho tượng này. Pho tượng còn được biết khá phổ
biến với tên gọi "Phật guiness". Phật Di Lặc chễm chệ giữa rừng cây với
nụ cười hỷ xả, một tay cầm chuỗi hạt, một tay cầm túi vải. Nụ cười của
Ngài được lý giải là để hóa giải những buồn phiền trong dân gian, cùng
túi càn khôn để ứng nguyện những lời cầu mong. Khi đến gần phải ngửa
trật ót mới chiêm ngưỡng được hết pho tượng này. Tuy vẫn chưa hoàn công
nhưng nơi đây đã nghi ngút khói nhang, người khấn người vái bên dưới
giàn giáo cột ngang cột dọc, xi măng, gạch vữa cùng những tòa tháp đang
còn tô trát. Người bán nhang đèn, vật kỷ niệm, cây trái, hoa quả xếp dọc
dọc từng tầng theo bậc tam cấp đi xuống con đường lát đá trong những
lều bạt xiêu vẹo.
Đường lên Núi Cấm/ Thiên Cẩm Sơn
Theo những tín đồ đạo Bửu Sơn Kỳ Hương thì khi Phật
Di Lặc (Maitreya) ở trên cung trời Đâu Suất với hình tượng điển hình
ngồi một tay chống cằm với chân trái duỗi thẳng, chân phải vắt ngang suy
ngẫm về chốn quốc độ: ta sẽ giáng sanh vào đâu, nơi nào của cõi ta bà,
vùng đất nào đây, nhà của ai đây, ta phải làm gì để chúng sanh thoát
khỏi luân hồi, mê đạo... Khi đã suy nghĩ xong, Ngài liền vươn vai đứng
dậy chuẩn bị hạ thế. Và nơi Ngài hạ thế chính là ngọn núi Cấm thuộc dãy
Thất Sơn. Điều mà Phật thầy Tây An đã tiên tri như vậy hồi thế kỷ XIX
nhưng thời điểm đó chưa đến. Liệu chăng hình tượng Phật guiness Bố Đại
Hòa thượng này có khế hợp gì với tín lý đã ăn sâu vào cộng đồng cư dân
thuộc không gian văn hóa Năm non Bảy núi này.
***
Tường như ngày nay, chủ nghĩa hoành tráng đang là
thời thượng. Đâu đâu người ta cũng nỗ lực xây chùa to, tượng lớn lấy đó
làm điều mãn nguyện. Đó cũng là điều hay, chỉ lo mỗi một điều là sự quá
lậm vào danh sắc mà quên đi cứu cánh chính yếu. Thiền viện Phật Lớn hiển
hiện với tòa ngang dãy dọc, dự tính sẽ có bái đường, vãng đường, nơi tu
tập cho các chư Tăng và hiện vẫn đang được tiếp tục hoàn thiện và mở
rộng. Anh hướng dẫn viên cho hay.
Tôi hỏi sư thầy: Do tượng Phật Di Lặc "khổng lồ" kia mà người dân gọi đây là chùa Phật Lớn?
Sư thầy đáp: "Không phải, chùa Phật Lớn nằm bên kia
cây cầu, rồi đi một quãng xa. Chùa Phật Lớn là tên gọi dựa trên kích cỡ
của tượng Phật do Bảy Do tạo tác hồi xửa hồi xưa. Pho tượng Phật bằng xi
măng cao một thước tám tây, ngồi kiết già".
"Vậy mà gọi là lớn sao?", tôi hỏi.
Sư thầy đáp: "Lúc bấy giờ ở xứ thâm sơn cùng cốc này là rất lớn. Hồi ấy, có mấy tượng Phật lớn được thế."
Bia Hòa thượng Thích Thiện Quang, vị khai sơn chùa Vạn Linh
Theo lời tục truyền, Bảy Do là một trong các yếu nhân
của phong trào Thiên Địa Hội hồi đầu thế kỷ XX ở vùng Bảy Núi. Ông lập
chùa Phật Lớn để tu hành, tránh sự dò xét của giặc, lấy các dịp lễ Phật
để họp bàn chuyện quốc sự... Song thế cuộc bất lợi, mưu đồ đại sự bị vỡ
lỡ. Giặc xua lính đi bố. Chúng lục xét khắp núi và rồi chúng dựa vào cớ
chùa có "nhiều chén bát", tức cụ bị cho đông người ăn để bắt Bảy Do, kết
tội ông mưu làm quốc sự, đày ra Côn Lôn và Bảy Do qua đời nơi đây.
Tượng Phật Lớn do Bảy Do tạo tác (chùa Phật Lớn)
Dường như ngày nay chùa Phật Lớn cũ bị nhầm lẫn bởi
sự rình rang, hoành tráng của Thiền viện Phật Lớn mới cùng tượng Phật
guiness. Nhưng với ý nghĩa lịch sử của một thời đầy bi phẫn đó cùng với
cái tâm và công sức lập chùa dựng tượng chốn núi non này vào buổi đầu
chùa Phật Lớn cũ thật sự đã chứa đựng ý nghĩa lớn.
***
"Đi hành hương Núi Cấm phải ngủ lại núi một đêm mới
nhận được điển lành" - nhóm người hành hương núi Cấm nói nhỏ với tôi như
vậy. Chính vì nhu cầu thiêng liêng đó mà có rất nhiều nhà nghỉ, quán
trọ dọc theo triền núi Cấm. Niềm tin bắt nguồn từ nếp nghĩ: đây là vùng
đất thiêng nên vạn vật đều linh thiêng. Ở lại một đêm là có thể hấp thụ
linh khí của trời đất để gột rửa, loại bỏ những phiền não chất chứa, để
tĩnh tâm, xả bỏ những sân si phàm tục. Núi cao rừng xanh kia là nơi dễ
thông linh với trời đất, với thần Phật. Vì vậy, rất nhiều bậc đạo sư đã
rời bỏ làng quê để đăng sơn núi Cấm thiêng liêng tu tập cầu mong một
ngày thành chánh quả. Nơi đây cũng là cứ điểm của phong trào kháng Pháp
dưới ngọn cờ của phong trào tôn giáo cứu thế lừng lẫy một thời và rồi
khi thế cuộc đổi thay bất lợi, Năm non Bảy núi là nơi lánh thân của
những bậc ưu thời mẫn thế. Bấy giờ, đại cuộc không thành, họ chí quyết
tu thân giữ lấy đạo nhà, không xu thời theo tân trào... và đau đáu trong
lòng kỳ vọng sẽ có một ngày đấng Minh vương sẽ ra đời, Phật Vị lai sẽ
giáng thế mở hội Long Hoa, tạo ra một thời thượng nguyên mới đầy hoan
lạc. Toàn cảnh "Năm non Bảy núi" mà trung tâm là Thiên Cẩm Sơn/Núi Cấm
qua lịch sử đã thành tạo nên một ngữ cảnh văn hóa với vẻ đẹp thiêng
liêng kỳ lạ. Do đó, bất cứ một nỗ lực nào, dù là thiên ý tốt lành, khi
đặt chúng vào đấy đều phải cẩn trọng mới không làm đứt gãy mạch truyền
dẫn văn hóa từ quá khứ đến tương lai.
Huỳnh Thanh Bình