“Nhớ đến một người” đó, với tôi, là nhớ
Nguyễn Hiến Lê, một người Hà Nội, một học giả, một nhà trí thức chân
chính ngày nay được cả nước biết đến. Nhưng nói Nguyễn Hiến Lê người Hà
Nội chỉ đúng… một phần ba, vì tuy sinh ra và lớn lên ở Hà Nội, lúc mới
22 tuổi, ra trường Công chánh, ông đã khăn gói vào Nam nhận nhiệm sở để
rồi sống luôn ở đó suốt nửa thế kỷ cho đến ngày mất, năm 1984, khi vừa
72 tuổi. Nửa thế kỷ dằng dặc đó của một đời người, ông đã chẳng lúc nào
nguôi quên Hà Nội của tuổi thơ ông.
Còn
nhớ năm 1978, ba năm sau ngày thống nhất đất nước, tôi có dịp lần đầu
tiên ra Hà Nội dự một hội nghi về y học. Hà Nội không hề xa lạ với tôi.
Tôi như thuộc lòng từng ngõ ngách, từng phiến đá, từng mái tranh gốc
rạ, từng phố xá thân quen… cũng nhờ từ nhỏ đã sống với tác phẩm của
Thạch Lam, Nguyễn Tuân, Nhất Linh, Khái Hưng… những buổi chiều vàng,
những gánh hàng hoa, những anh phải sống… rồi với cả những người xa Hà
Nội như Mai Thảo, như Vũ Bằng… Hà Nội với tôi còn là “Cùng ngước mắt về phương Thăng Long thành cao đứng…” của Lưu Hữu Phước, rồi “Hà Nội ơi, hướng về thành phố xa xôi, ánh đèn giăng mắc muôn nơi, áo màu tung gió chơi vơi…”…
Tôi lẻn khỏi hội nghị đến thăm Văn
Miếu, lòng lâng lâng như đi giữa ngàn xưa và bỗng nhớ Nguyễn Hiến Lê,
nhớ một câu ông viết từ những năm 50 rằng bằng cấp không phải là thước
đo gía trị của một con người. Có những người có tên trong văn bia tiến
sĩ ở Văn Miếu mà chẳng mấy ai còn nhớ, trong khi những Nguyễn Công Trứ,
Nguyễn Khuyến, Chu Manh Trinh, Tản Đà, Tú Xương… luôn được người đời
nhắc đến…
Tôi đến Bưu điện Hà Nội gởi ngay cho
ông một tấm bưu thiếp. Chỉ viết mấy dòng vắn tắt. Cũng chẳng hy vọng gì
nó đến được trong thời buổi đầy khó khăn này. Vậy mà hơn một tháng sau,
Nguyễn Hiến Lê nhận được bưu thiếp và ông trả lời:
Saigon 3/11/78
Thân gởi cháu Ngọc,
Hôm qua tôi được bưu thiếp cùa cháu gởi từ Hà Nội ngày 29/9. Cảm
động nhất là câu: “Cháu đến thăm Văn miếu , nghĩ đến bác nhiều”. Tôi
hiểu rồi chắc cháu nhớ một đoạn cuối tập Bí quyết thi đậu của tôi. Cảm
ơn cháu nhiều lắm. Cháu hiểu tôi. Cháu làm tôi nhớ hồi trẻ tôi học ở
trường Bưởi (Chu Văn An) ngoài đó quá. Cháu có xem Hồ Tây, chùa Quan
Thánh, đường Cổ ngư (nay là đường Thanh Niên?) không? Trường Bưởi của
tôi ở bên bờ Hồ Tây đấy. Mà trường Yên Phụ (tiểu học) của tôi ở trên bờ
hồ Trúc Bạch trông ra đường Cổ ngư đấy.
Đứng trên đường này nhìn về phía
Bắc sẽ thấy núi Tản Viên, quê tôi ở gần chân núi đó. Nhớ quá đi. Cháu
có đi thăm đền Ngọc Sơn, đền Voi Phục, chùa Láng … không? Toàn những
cảnh mà hồi trẻ tôi mê.
Mê nhất là cái sắc trời, cái không
khí trong trẻo, những làn sương lam nhẹ là là mặt đât, ngọn gió hây
hẩy, những lá vàng, làn nước xanh, hương lúa của mùa thu ngoài đó. Toàn
là những teintes douces, gợi những tình cảm buồn buồn mà nên thơ, nên
thơ lắm. (…)
Nhớ lại trước đó nữa, đầu năm 1974, tôi gởi tặng ông bài thơ mới
viết: Đi cho đỡ nhớ, ghi lại cảm xúc của mình trong ngày đầu tiên trên
chuyến xe lửa nối liền Saigon- Biên Hòa mà mơ một chuyến tàu thống
nhất… Ông trả lời:
Saigon 30/1/74
Cháu Đỗ Hồng Ngoc,
Tôi mới ở Long Xuyên lên. Bài “Đi cho đỡ nhớ” cảm hứng mới mẻ đấy, mà
thú. Đọc hoài thơ yêu nhau và nhớ nhau, với thơ chiến tranh, ngán quá
rồi. Nhưng cháu làm cho tôi thèm đi quá. A, bao giờ Saigon mới được nối
với Hà Nội bằag xe lửa đây? Lúc đó tôi sẽ bỏ hết các công việc, nhờ
cháu làm revision générale cho bộ máy của tôi, rồi lên xe lửa thăm non
sông Nam, Trung, Bắc một lần cuối cùng. Sẽ uống dừa Tam Quan, ăn cam Xã
Đoài, rồi ăn nhãn Hưng Yên, hồng Bạch Hạc, cốm Vòng v.v.. Thèm không
cháu?(…)
Ông thường nhắc trong thư cảnh núi Tản hùng vĩ, cảnh ngã ba Bạch Hạc
mênh mông mùa nước lớn, cảnh đồng ruộng văng vẳng tiếng sáo diều và
thoang thoảng hương lúa, cảnh chợ quê lèo tèo mấy gian cột tre mái rạ
với những quán chè tươi… làm tôi cũng nhớ quá!
Cơ hội đã đến với ông. Năm 1979, ông được mời đi dự Hội nghị khoa học toàn quốc về vấn đề Giữ gìn sự trong sáng trong tiếng Việt tại Hà Nội, thế nhưng lần đó ông không đi được vì bệnh. Rồi thôi, không còn dịp nào nữa!
22.10.79
Cháu Ngọc,
Tôi đã bỏ ý ra Hà Nội rồi. Cơ hội tốt, đáng tiếc thật. Nhưng ngại chỗ ở
và ăn lắm, cũng ngại cuối Oct. thời tiết lạnh đau bao tử và rhinite trở
lại. Cũng còn li do: ông Trương Văn Chình không được mời ra, không hiểu
tại sao. Đi một mình, buồn.
(Ghi chú: Trương Văn Chình là người cùng hợp soạn với ông cuốn Khảo luận về Ngữ pháp Việt Nam. NXB Đại học Huế, 1963).
Rồi ông về ở hẳn Long Xuyên, quê hương thứ hai của ông ở miền Nam,
ráng viết cho xong các tác phẩm triết học Trung Quốc mà ông nói là “hy
vọng còn có giá trị trong vài mươi năm nữa”- và “cũng để bắt đầu óc
phải làm việc” cho nó đừng sớm “lão hóa”. Cũng trong thời gian này, ông
nói ông băn khoăn không biết có nên viết hồi ký hay không, và, nếu có
viết thì sẽ viết những gì. Trong các thư riêng gỡi tôi, ông tâm sự như
thế và nghĩ rằng có lẽ cũng nên viết chút gì đó chừng vài trăm trang…
Thế rồi Hồi ký Nguyễn Hiến Lê cũng đã hình thành như ta được biết hôm
nay.
Những năm cuối đời, ông thường ưu tư buồn bã, mà vẫn khôn nguôi nỗi nhớ quê xưa:
Nhớ lại hồi đó, mới đây thôi mà đã đúng như câu thơ cổ: ”Vạn sự
tan như mây khói” cả rồi. Cả cái mộng đi một tua thăm Nam Trung Bắc
cũng tan luôn nữa.
Tôi chưa về thăm ngoài đó….
(Long Xuyên 30.7.79)
***
TP.Hồ Chí Minh có con đường mang tên Nguyễn Hiến Lê. Một cách ghi nhận
công lao của một “người Hà Nội” đã sống và làm việc miệt mài suốt nửa
thế kỷ ở miền Nam và đã để lại một di sản đáng quý góp một phần không
nhỏ vào nền văn hóa nước nhà.
Và với riêng tôi, Nguyễn Hiến Lê còn để lại biết bao niềm trân trọng và trìu mến để tôi được “Nhớ đến một người” giữa “mùa hoa sữa về thơm từng ngọn gió” của Hà Nội hôm nay.
Đỗ Hồng Ngọc
(Saigon 29/9/2010)