Vậy, có Phật tử “giả” hay không? Thực chất vấn đề ra sao?
Ý kiến chủ quan của riêng tôi là có, và không phải là hiện tượng cá biệt. Xin phép được nêu ra dưới đây.
Đúng là tự thân một Phật tử, thì không có quyền lợi vật chất gì, hiểu theo nghĩa thế gian.
Nhưng ở đây không chỉ là vấn đề quyền lợi vật chất theo nghĩa riêng
tư, nó liên quan đến nhiều thứ quyền lợi khác, mà cần giả Phật tử mới
có thể thực hiện được.
Chúng ta còn nhớ Phật thoại kể về một tên thợ săn với y phục của kẻ
săn thú, hắn không thể đến gần muông thú trong rừng để săn bắn. Nhận
thấy muông thú thường hay đến nơi một vị sa môn ẩn cư trong rừng tu tập,
tên thợ săn bèn giả hình tướng một vị sa môn để săn thú. Kết quả là
nhiều thú vật bị sát hại bởi các bẫy hình tướng này.
Cũng vậy, nếu không giả danh Phật tử, thì những người, vì những mục
tiêu nào đó trục lợi cho họ, cho một lực lượng nào đó, nhằm trục lợi
hoặc gây tác dụng xấu cho Đạo Phật, không thể gần gũi trà trộn vào Phật
tử, gần gũi Phật tử, có điều kiện thuận lợi tác động đến Phật tử để phục
vụ cho mục tiêu riêng của họ, thì tất yếu họ phải giả làm Phật tử.
Những chuyện như thế cũng khá nhiều, giả dạng đủ dạng đủ kiểu, tự
xưng, tự nhận hay thậm chí mặc áo vạt khách, đeo chuỗi, luôn miệng “mô
Phật”.
Có những người chỉ giả dạng bên ngoài, nhưng có những kẻ “giả dạng
bên trong”. Cụm từ “giả dạng bên trong” có vẻ mâu thuẫn, khó hiểu. Tuy
nhiên phải nói như vậy để bạn đọc hình dung ra vấn đề. “Giả dạng bên
trong” là kiểu Phật tử giả danh, thực sự không phải Phật tử, nhưng giả
danh bằng cách tự kỷ ám thị mình là Phật tử, dùng tưởng tượng để biến
mình sao cho có tình cảm suy nghĩ và hành động như một Phật tử thật, chỉ
có một số ít hành vi không phải là Phật tử mà thôi.
Trong sân khấu học, phương cách này gọi là phương pháp Stanilapski,
hay thuật ngữ sân khấu còn gọi là thể hệ Stanilapski, theo tên một nhà
lý luận sân khấu học và là một đạo diễn tài năng người Nga. Về lý luận,
thì trình bày phương pháp này tương đối khó. Nhưng trong thực tế, thì
việc ứng dụng nó hết sức phổ biến, thường gọi dưới từ “nhập vai”.
Thí dụ, trong phương pháp Stanilapski để diễn xuất sự đau khổ về
mất mát người thân chẳng hạn, thì người diễn viên có thể khơi gợi ký ức
cảm xúc về trường hợp đau khổ có thật đối với tự thân cũng trong tình
huống như thế ở quá khứ, để thể hiện sự đau buồn “giả”.
Còn chẳng hạn thể hiện sự vui mừng khi gặp lại người bạn thân chẳng
hạn, thì diễn viên vận dụng trí tưởng tượng đồng thời với ký ức cảm xúc
để xem diễn viên đóng vai người bạn mới gặp lại của mình là bạn thân
thật sự, tự đó tạo ra cảm giác vui vẻ thật sự, nhưng vẫn “giả”.
Khi đó, người diễn viên, mà ở đây là người không phải Phật tử, phải
quên mất con người thật của mình đi, mà sống trong vai diễn, tức người
Phật tử giả danh, tạo ra những tình cảm giả, những suy nghĩ giả trong
cương vị người Phật tử.
Phương pháp Stanilapski này đối lập với một phương pháp gọi là
Phương pháp Bertolt Brecht. Phương pháp Bertolt Brecht yêu cầu người
đóng kịch phải luôn tự quán sát về việc đóng giả của mình, tách ra khỏi
mình để điều khiển cơ thể trong diễn xuất, tỉnh táo (tức không nhập
vai). Phương pháp Bertolt Brecht, còn gọi là phương pháp gián cách, gần
với thiền của Phật giáo (chúng tôi sẽ có dịp phân tích kỹ hơn).
Những Phật tử “giả bên trong” hóa thân thành những Phật tử thật,
nhưng mục tiêu của họ không phải là tu hành giải thoát, không tin kính
Tam Bảo, không hoằng dương chính pháp. Mà họ có những mục tiêu riêng.
Kiểu Phật tử giả này nguy hại cho đạo Phật hơn là những kẻ mượn
tiếng đi chùa để dẫn đến những am miếu của đạo vô vi. Vì dù sao, người
ta thẳng thắn tự nhận mình không phải Phật tử. Còn Phật tử đội lốt, dù
bên ngoài hay bên trong, thì luôn nhận mình là Phật tử, dùng tự kỷ ám
thị để tạo ra những tình cảm đối với Phật pháp, nhưng lại ngầm xác định
những mục tiêu riêng.
Những Phật tử trong những đạo tràng hộ niệm “nhị bảo”, ép buộc tang
chủ đoạn tuyệt với chùa chiền có thể coi là thuộc loại Phật tử giả kể
trên. Họ vẫn tự xưng là Phật tử, nhưng lại sửa kinh Phật ngay ở khái
niệm cơ bản, từ Tam Bảo thành “Nhị Bảo” “Phật tử giả” là những người tự
nhận là Phật tử để làm những việc như thế.
Cũng vậy, với muôn hình vạn trạng lời nói và việc làm khác, gây
phương hại trực tiếp hay gián tiếp cho Phật giáo, được nói ra hay tạo
tác từ những người tự nhận là đạo Phật.
Ngay từ nhỏ, tôi đã thấy cái kiểu Phật tử đội lốt như thế, vì gia
tộc họ ngoại của tôi là một trường hợp nạn nhân cải đạo điển hình.
Một người bà con của tôi, luôn tự xưng là “Phật tử”, thỉnh thoảng
vẫn đi chùa, tìm cách tiếp xúc với các Phật tử, nhưng lại là để khuyên
họ… đừng đi chùa, mà hãy lập bàn thờ hay tốt hơn là lập phòng thờ Phật
tại nhà, theo sự hướng dẫn của một sư phụ tên là “Cô Năm”.
Lập luận chính của bà là đi chùa khi lạy thì lạy nhằm mông đít
người khác, mất hết thanh tịnh. Đây cũng là một dạng đạo “vô vi”.
“Phât tử giả” đi chùa nhưng không bao giờ lên hành lễ chung. Bà có
một kiểu lạy riêng, xòe hai tay ra khi đặt sát đất, bà khuyên mọi người
nên lễ Phật theo cách này để xòe tay hứng “Lộc Phật”. Nhưng, vẫn theo
bà, cách lạy “hứng Lộc Phật” như thế chỉ nên lạy ở nhà mới hứng được
lộc, còn lạy ở chùa, sau lưng người khác thì chỉ hứng được… đồ bất tịnh
(?!).
Tôi cũng bị, có khi bắt buộc, có khi được khuyến khích bằng tiền
bạc, kẹo bánh lên hành lễ ở phòng thờ Phật, nhưng trong đó thờ đủ thứ,
cọp, Quan Công, Tôn Ngộ Không, Mẹ sinh mẹ độ, Lê Sơn thánh mẫu, Tây
Vương mẫu, Địa mẫu và… Maria. Khi hành lễ trước bàn thờ Phật, “Phật tử”
như vậy cũng có lạy Phật, nhưng không tụng nghi thức tụng niệm do nhà
chùa phát hành, mà đọc một thứ “kinh” quay roneo. Cuối buổi lễ phải
hướng về nhà Cô Năm để bái vọng.
Tôi thấy, dường như người bà con tôi cũng lôi kéo được vài Phật tử
thôi không đi chùa. Bà đến chùa bảo Phật tử đừng đọc sách do quý thầy
viết, vì như lời bà “thầy chùa toàn là CIA và Việt Cộng”! Chị họ tôi,
con bà, mua sách thầy Nhất Hạnh, phải dấu giếm để đọc lén, khi phát hiện
được thì bà “Mô Phật” và xé nát.
Giả danh Phật tử đến chùa để trực tiếp khuyên Phật tử đừng đến chùa
còn là một kiểu giả danh thô thiển. Có những kiểu giả danh tinh vi hơn,
như tìm cách lọt vào ban tổ chức những cuộc lễ lớn, rồi cho vào trong
quà tặng sách vở của ngoài đạo, loại chưa được cấp phép lưu hành, có nội
dung chính là đả kích các vị tôn đức trưởng thượng của Phật giáo Việt
Nam. Trường hợp này một số trang web đã ghi nhận.
Trường hợp “Phật tử” đến chùa, rồi giấm giúi vào tay các Phật tử
dĩa, sách, tờ bướm của Thanh Hải Vô Thượng sư, một ni cô nay tự xưng là
tín đồ Ca tô, cũng là ví dụ Phật tử giả phổ biến. Đây cũng là một cách
ngăn cản việc đi chùa một cách gián tiếp, khuyên Phật tử nên tự tu ở nhà
theo sự hướng dẫn của một “bồ tát hóa thân” mới, ngồi thiền tại nhà vào
những giờ cả thế giới ngồi thiền “để tạo năng lượng toàn cầu” theo lịch
chỉ dẫn của Đài Truyền hình Thanh Hải.
Gần đây, có một số “minh sư” tự phong mới xuất hiện, đưa các Phật
tử giả vào chùa, cũng cùng một mục tiêu như vậy. Không những sách, dĩa
như đạo Thanh Hải, nhưng người Phật tử giả này tiến tới việc tặng USB.
Trả lời chất vẫn về việc “giả danh” này, thì những “Phật tử” giả cũng
nói theo cách nhà Phật, gọi đó là pháp “phương tiện”.
Trong mục đích tối cao của những Phật tử đội lốt là cô lập chùa
chiền, ngăn cản Phật tử đến chùa, còn có thể kể rất nhiều cách làm tinh
vi.
Có lần, tôi đi chùa với một nhóm bạn, nhưng một người bàn nên đi
sang chùa khác vì thấy có dạng cờ thường thấy ở các đám ma treo ra đến
đầu hẻm. Tôi bảo cả nhóm cứ vào, thì không thấy đám ma gì cả. Hỏi ra thì
mới biết có Phật tử cúng loại cờ đám ma đó, bảo là cờ mang tính dân
tộc, và khuyên treo loại cờ đó thay cho cờ Phật giáo.
Cũng vậy, ở Long An, có Phật tử đề nghị cúng cho mỗi chùa một số
quan tài để bố thí với điều kiện đặt ở ngay cửa chùa để thể hiện tinh
thần làm từ thiện của chùa. Như thế, đến chùa, các Phật tử thấy ngay
quan tài được trưng bày. Có chùa có lúc trưng bày đến hai ba chục cái
quan tài trước cửa như chùa Linh Phước, Xã Thanh Phú, huyện Bến Lức,
Long An, ngay cạnh nhà tôi. Một cái quan tài đóng bằng loại gỗ tạp, giá
không bao nhiêu tiền, nhưng hiệu quả tiêu cực của nó vô cùng lớn đối với
tâm lý Phật tử trẻ. Theo Phân tâm học Freud, người ta đang tác động vào
cái vô thức của tâm lý con người. Để nhà chùa trưng bày nó, thì ắt phải
giả làm Phật tử và nói chuyện công đức.
Trong tác phẩm Tây Du Ký, để lường gạt thầy trò Đường Tăng, yêu
quái đã dùng pháp thuật để tạo ra “Tiểu Lôi Âm”. Có những con yêu đội
lốt Đức Phật và các đệ tử. Hồng Hài Nhi giả làm Phật Quan Âm... Cái cách
làm giả đó cùng mục tiêu để tiếp cận đối tượng để hành sự. Do vậy, cho
nên không phải vì có lợi lạc gì trước mắt mới giả Phật tử, mà có khi vì
những lợi ích tiềm ẩn mà chúng ta chưa kịp nghĩ đến.
Cửa chùa rộng mở, nên giả Phật tử là rất dễ. Không cần làm giả một
thứ giấy tờ nào hết cũng không tốn kém gì nhiều. Phật tử thực sự chân
chính chúng ta nên nhận thức vấn đề một cách toàn diện, để có thể thực
hiện trọn vẹn chức năng hộ pháp.
Minh Thạnh