Những năm 1979 - 1980, tôi mới là cậu học sinh lớp 12. Khi
đó, vì khó khăn kinh tế, và vì hoàn cảnh bấy giờ, hoạt động in ấn xuất
bản thu hẹp. Một học sinh trung học như tôi, dù có được đọc một số tờ
báo Phật giáo, như chưa thể hình dung việc làm báo Phật giáo cũng là một
hoạt động tu học và có vai trò quan trọng thế nào, quy trình ra sao.
Bổn sư của tôi là Tổng Thư ký Tổng vụ Hoằng pháp Giáo hội Phật giáo
Việt Nam Thống nhất, là cánh tay mặt của Hòa thượng Thích Thuyền Ấn,
nhưng thầy bổn sư tôi là người hoạt động trên lĩnh vực giáo dục Phật
giáo, là hiệu trưởng một trường trung học Bồ Đề, nên hầu như không đề
cập đến hoạt động báo chí Phật giáo.
Thầy chỉ ấp ủ hoài bão mở lại hệ thống trường Bồ Đề và mong tôi theo
học ngành sư phạm, dù lúc đó ngành học này ít nhiều bị xem nhẹ.
Nhưng may mắn, Hòa thượng Thích Thuyền Ấn đã giúp cho tôi những kiến
thức đầu tiên về truyền thông Phật giáo, chỉ cho tôi một cách thức tu
hành mà bây giờ tôi đang áp dụng, là đọc và viết cho công chúng về đề
tài Phật giáo.
Hòa thượng Thích Thuyền Ấn sống ẩn dật và tách biệt trên một phòng nhỏ ở
tầng cao nhất của chùa Ấn Quang. Hầu như, thầy không hề xuống chính
điện tụng kinh, lập chúng, nhận đệ tử mà dành hết thời gian vào việc đọc
sách.
Vì thế thời gian thầy dành cho Phật tử cũng không nhiều. Tôi may mắn lắm mới được gặp thầy vài ba lần.
Lần đầu tiên vào thăm thầy, tôi thấy thầy ngắm nghía bản phim in bìa
tạp chí Hải Triều Âm. Đối với tôi bản phim dùng để in báo là cái rất lạ,
tôi mới nhìn thấy lần đầu.
Thấy tôi quan tâm, thầy cầm lên giải thích rất kỹ về vai trò của công
việc làm báo trong hoạt động hoằng pháp. Thầy giải thích việc làm báo hoằng pháp là một pháp tu, vì trước hết, nó phục vụ đạo pháp theo cách mà không phải ai cũng làm được.
Thầy cũng nói đến tác động và quả của báo chí đối với việc truyền bá
đạo Phật, tức là những khái niệm cơ bản về truyền thông và truyền thông
Phật giáo theo cách nói hiện nay.
Thầy cũng nói sơ lược về quy trình kỹ thuật của việc làm báo, thông qua trường hợp cụ thể của tạp chí Hải Triều Âm, từ khâu bản thảo (như khái niệm biên tập bây giờ), cho đến việc trình bày, chế bản, in ấn, và cả khâu phát hành.
Nhờ có vài buổi được hầu chuyện cùng thầy, một học sinh 17 tuổi đã có
được khái niệm ban đầu, tương đối bao quát, về việc làm báo Phật giáo,
gieo vào lòng tôi những ước mơ ban đầu về việc phụng sự đạo pháp bằng
ngòi bút.
Thầy giúp cho chúng tôi hình dung phần nào từ “âm” trong “hải triều âm”,
“phạm âm”, “quán thế âm” cũng có thể hiểu là hoằng pháp, là truyền bá
đạo Phật đến với mọi người.
Nhờ thầy, lúc đó, tôi đã có ý niệm về logo của một tờ báo, với hải triều âm là làn sóng dâng cao viên mãn.
Bản phim in bìa tạp chí Hải Triều Âm khi đó không còn dùng vào
việc gì, nhưng thầy vẫn lưu giữ như một kỷ vật, và dùng làm “giáo cụ”
trực quan cho những thanh niên Phật tử có duyên với truyền thông như
tôi.
Hình ảnh bản phim bìa tạp chí Hải Triều Âm của thầy là hình ảnh không bao giờ phai mờ trong ký ức tôi.
Trong những ngày tháng tiễn đưa giác linh hòa thượng, tôi muốn trình với
ngài rằng, đứa học trò về truyền thông Phật giáo trong một vài buổi của
ngài, nay đã viết được có lẽ đã đến được hàng trăm bài viết về truyền
thông Phật giáo. Dù thụ giáo chỉ vài buổi, tôi mặc nhiên là đứa học trò
được ngài vỡ lòng để đi vào lĩnh vực truyền thông Phật giáo.
Chắc không bao giờ tôi làm được công việc chủ biên một tờ báo tạp chí
Phật giáo như ngài, nhưng tôi chắc chắn cũng làm được một cái gì đó, dù
nhỏ bé cho truyền thông Phật giáo, không phụ công sức vỡ lòng của thầy.
Thực sự tôi đang theo “pháp môn” mà thầy truyền đạt. Tôi không tụng
kinh, không trì chú, mà dành hết thời giờ để đọc sách trong đạo ngoại
đời, để có kiến thức Phật học và truyền thông, viết được nhiều bài về
lĩnh vực báo chí Phật giáo, hoằng pháp. Tôi nghĩ rằng đó cũng là một
cách tu, vì khi viết bài truyền thông Phật giáo, tôi chỉ nghĩ đến làm
sao để “hải triều âm” vang xa.
Loạt bài giảng sau cùng của thầy trên giảng đường chùa Ấn Quang, theo
tôi nhớ, không phải là những bộ kinh Phật, mà là phân tích một quyển
tiểu thuyết. Đó là tác phẩm Câu chuyện dòng sông của nhà văn Đức Hermann Hesse, giải Nobel văn học.
Loạt bài giảng của thầy cũng là những bài học của tôi về một đề tài
khác, đó là hoằng pháp thông qua việc phân tích một tác phẩm văn học
nghệ thuật.
Lần đầu tiên, tôi nhận thức được rằng thuyết pháp không chỉ là giảng
kinh mà đề tài có thể là một quyển… tiểu thuyết, có liên hệ đến nhân
sinh quan Phật giáo.
Xin cũng được kính trình lên giác linh hòa thượng, cách mà thầy làm cũng
đã được đứa học trò xa vận dụng ít nhiều có kết quả nhất định.
Với phương pháp mà thầy vỡ lòng, tôi đã mở rộng ra nhiều tác phẩm, đặc biệt là các tác phẩm kịch và điện ảnh.
Cũng như rất nhiều Phật tử khác, tôi cũng trông chờ thầy về mỏi mòn.
Tôi nghĩ là thầy sẽ rất vui khi biết được có một Phật tử, chỉ học vỡ
lòng ở thầy vài giờ vài buổi những phương pháp hoằng pháp mà thầy rất sở
trường, đã vận dụng bước đầu trong việc tu học và có được kết quả sơ
khởi nào đó.
Người thầy vỡ lòng tôi về truyền thông, báo chí Phật giáo mãi mãi sống trong tôi.