Xin bàn một chút về lý thuyết, không
ra ngoài phạm vi của đề tài năm 1963. Thế nào là "dấn thân"? Năm 1963
chẳng phải là dấn thân đó sao? Như đã nói, các nhà lãnh đạo Phật giáo
hồi đó luôn luôn muốn hành động của mình không rời lý thuyết để không
ai. Vì vậy, dấn thân của sự kiện năm 1963 cũng như sau năm 1963 là dấn
thân trên mặt trận văn hóa, không phải dấn thân vào chính trị. Dấn thân
theo nghĩa đó không mới mẻ gì trong lịch sử Phật giáo. Đó chỉ là tinh
thần nhập thế trong đạo Phật. Vậy thì, thế nào là xuất thế, thế nào là
nhập thế?
|
Giáo sư Cao Huy Thuần
|
Phật giáo xuất thế gian, đúng vậy,
nhất là đối với người xuất gia. Chùa chiền thì xây trên núi. Cách sống
thì xa lánh cõi trần. "Cạo bỏ râu tóc, làm bậc sa môn, tiếp nhận lấy
đạo, thì hãy rời bỏ tài sản thế gian, khất thực vừa đủ, mỗi ngày đứng
bóng ăn một bữa, mỗi đêm dưới cây ngủ một lần, thận trọng đừng thêm. Làm
cho người u mê tồi tệ chính là ái dục". Phật đã dạy như vậy trong Kinh
42 bài.
Mẫu mực đó đâu phải là của người dấn thân vào những tranh đấu trong xã
hội? "Tu " là để giải thoát. Mà người giải thoát là người đã thấy rõ sự
vật là vô ngã, vô thường. Thấy rồi thì sinh tâm nhàm chán, cắt bỏ phiền
não vô minh, đoạn trừ luân hồi sinh tử. Vậy thì tại sao các ông sư thời
63 biểu tình tuyệt thực? Lý tưởng là diệt khổ, đeo thêm cái khổ chính
trị làm chi? Đó là miệng lưỡi của chính quyền trong những năm 1963 để an
trí các ông sư trong chùa.
Xuất thế đâu phải vậy! Lấy lý thuyết
mà nói, Phật giáo nhìn thực tại dưới hai mặt: một mặt thuộc về tục đế,
một mặt thuộc về chân đế, nói nôm na là cái thấy ở cấp dưới và cái thấy ở
cấp cao tột.
Ở tục đế, khi chưa giải thoát, ta thấy có sinh lão bệnh tử, có khổ cần
phải diệt, có niết bàn để hướng đến. Khi đã giải thoát, khi phiền não đã
phá tung, nhận thức thay đổi: những thứ trước đây gọi là khổ, là sinh
lão bệnh tử, thì nay được nhận ra không còn là khổ nữa. "Nếu cần sinh ra
thì sinh, đến lúc già thì già, nếu phải bệnh thì bệnh, rồi khi chết thì
chết". Khổ đã không thấy thì niết bàn cũng không thấy, vì ta đã sống
trong đó rồi. An vui, thanh thản, vững chắc trong cái mà trước đây ta
gọi là khổ. Ta rời cái thấy về khổ ở tục đế để đạt đến cái thấy về khổ ở
chân đế. Và như vậy, niềm vui xuất thế gian không còn là niềm vui đối
nghịch với khổ nữa, vì khổ còn đâu nữa mà đối nghịch? Khổ đã không còn
thì tất cả đều không còn, kể cả không còn tu. Kinh Bát Nhã nói: "không
mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, không thanh, hương, vị, xúc, pháp" là thế,
là tất cả đều không. Sự thật thế gian đã đi sang xuất thế gian. Và vì
tất cả đều không nên Kinh nói: giải thoát ra khỏi mọi khiếp sợ.
Nhưng tư tưởng Phật giáo là một tư
tưởng biện chứng. Biện chứng cả trong lý thuyết lẫn hành động. Trong lý
thuyết, chân đế không rời tục đế. Phải thấy cái khổ ở mức tục đế rồi mới
siêu việt cái khổ ở mức chân đế. Không còn thấy cái khổ nữa ở mức chân
đế không có nghĩa là không biết có khổ ở mức tục đế. Cái thấy ở xuất thế
gian không có nghĩa là không biết cái thấy ở mức thế gian. Có cái này
rồi mới biết có cái kia. Khi có cái kia rồi vẫn biết nhân gian còn có
cái này. Cho nên xuất thế gian không rời thế gian.
Tư tưởng biện chứng đưa đến hành động
biện chứng. Thấy tất cả đều không thì không còn gì là chướng ngại. Ngay
đến kẻ thù cũng không còn là kẻ thù. Dưới con mắt của chân đế, kẻ thù
chỉ là nạn nhân của khổ mà chính họ không biết. Thì ta phải giải khổ cho
họ với lòng từ bi! Căn bản của tranh đấu bất bạo động là như vậy. Thấy
kẻ thù không phải là kẻ thù, chỉ là đối phương mà tình thương của ta sẽ
làm hóa giải. Không thấy được điều đó thì không hiểu được ngọn lửa Quảng
Đức. Thì không thể hiểu được tại sao Vũ Hoàng Chương lại đặt tên cho
bài thơ bất hủ của ông về ngài là "Lửa từ bi ". Vì ngài có cái nhìn xuất
thế gian nên mới có hành động nhập thế đến mức ấy.
Giữa xuất thế và nhập thế, hai bên qua lại thong dong, không có biên giới. Tôi đọc một đoạn trong kinh Lăng Nghiêm:
"Ngài Trì Địa bồ tát bạch với đức
Phật: "Con nhớ xưa làm người xuất gia, bấy giờ đường sá, sông biển,
ruộng đất, núi non, tất cả chỗ ấy nơi nào có chi chướng ngại, hại cho sự
đi lại và sự chuyên chở, thì con san bằng phẳng, làm cầu cống, lấp hầm
hố. Siêng khó như vậy trải qua vô số kiếp. Có ai cần người mang gánh
giúp thì con mang gánh trước, đến tận chỗ họ muốn rồi con để xuống, đi
ngay, không lấy tiền thuê. Mãi đến thời kỳ đức Tỳ Xá ra đời, bấy giờ thế
gian đói khổ lắm, con làm người gánh chở giúp, bất kể xa gần. Chỗ nào
xe, đò bị mắc kẹt, thì con rán sức xô đẩy. Quốc chúa nước con lúc đó
thiết trai cúng dường đức Tỳ Xá Thế Tôn, con bèn san đắp bằng phẳng
đường đi để đón chờ. Khi ngài đi qua, xoa đầu con mà bảo: Hãy bình tâm
địa thì thế giới đại địa đều bình".
Đó là nhập thế. Xuất thế ngay lập tức không chướng ngại:
"Nghe lời ấy, tâm trí con tức thì khai ngộ. Con thấy những đan vị cực
nhỏ tạo thành thân con cùng với những đan vị cực nhỏ tạo thành vũ trụ
đều bình đẳng không sai biệt. Tánh của những đan vị ấy không xúc chạm
nhau, cho đến binh đao khí giới cũng đều như vậy, không hề đụng chạm lẫn
nhau". Không ở đâu biện chứng xuất thế và nhập thế hiển lộ cụ thể hơn
nơi con người Trần Thái Tông và Sư Trúc Lâm. Trần Thái Tông muốn gì khi
bỏ kinh đô lên Yên Tử? "Ta suy đi nghĩ lại: chi bằng lui về ở chốn núi
rừng, tìm lục Phật pháp để hiểu rõ việc lớn sanh tử, lấy đó để đền đáp
công ơn cha mẹ, chẳng hay hơn sao?". Vua nói thêm: "Lại nghĩ sự nghiệp
các bậc đế vương đời trước, thịnh suy không tường, cho nên Trẫm đến núi
này chỉ cầu làm Phật, chứ không cầu gì khác". Ấy là Trần Thái Tông muốn
xuất thế. Và Sư Trúc Lâm, người đã xuất thế rồi, đã ở trên non rồi,
khuyên gì nhà vua? Hãy nhập thế! "Phàm làm đấng nhân quân, phải lấy ý
muốn của thiên hạ làm ý muốn của mình, lấy tâm của thiên hạ làm tâm của
mình. Nay thiên hạ muốn đón Bệ Hạ trở về, Bệ Hạ không về sao được. Song
phải nghiên cứu nội điển, mong Bệ Hạ đừng xao lãng". Nghĩa là hãy nhập
thế, nhưng hãy học xuất thế. Nếu ngày nay, ai làm vua làm quan mà biết
xuất thế như vậy, cái bả quyền lực phú quý đâu còn ngậm chặt trong lưỡi!
Khi vào thì làm đầy tớ cho dân cũng làm như kinh Lăng Nghiêm dặn thế,
khi ra thì không vướng ngại, không thấy sai biệt, ra vào với một tâm
bình đẳng.
Tôi nhắc một chút lý thuyết như vậy để làm rõ cái ý muốn đanh thép của
các vị lãnh đạo phong trào Phật giáo năm 1963. Các vị ấy dấn thân vào
một cuộc tranh đấu dù sao cũng dính dáng đến chính trị nhưng họ không
muốn vướng mùi bùn chính trị. Trước mắt họ là tấm gương sáng ngời của
các vị quốc sư trong lịch sử, vua vời đến để hỏi chuyện chính sự thì nói
chính sự, nhưng nói xong thì rút về chốn núi non. Mà chuyện "chính sự"
của các quốc sư ấy không phải là thứ chính trị nhỏ nhặt, đó thường là
cái thế để giữ nước trường tồn, nghĩa là những nguyên lý mà tính chất
văn hóa, đạo lý là căn bản.
Tôi trích vài đoạn phản ánh ý muốn không lay chuyển nói trên có liên quan đến thời sự 1963:
"Tại sao người xuất gia không thể tham gia chính trị và quân sự?
1. Trước hết, dù ở trong trường hợp tự vệ, quân sự cũng vẫn là một hành
động trái với nguyên tắc tôn trọng sự sống, huống chi là trường hợp
khác. Trong trường hợp tự vệ, vì cái tinh thần vô úy hy sinh sự sống để
bảo vệ sự sống, người Phật tử tại gia phải làm, bất đắc dĩ phải làm. Còn
người xuất gia thì không thể như vậy vì họ đã là hiện thân của nguyên
tắc tôn trọng sự sống của tất cả.
2. Huống chi phương pháp tự vệ không phải chỉ là chính trị và quân sự;
chính trị và nhất là quân sự là những điều bất đác dĩ nhất trong tự vệ.
Hai người muốn thắng nhau mà phải đánh nhau vẫn là một điều dở. Cho nên
người xuất gia, vì lẽ tương quan sinh tồn, nếu có thể, chỉ nên tham gia
kinh tế, văn hóa và xã hội mà thôi, còn chính trị và quân sự không những
trái với nguyên tắc tôn trọng sự sống, mà còn trái hẳn với nguyên tắc
"trên tất cả", không phân biệt chủng tộc, giai cấp của người xuất gia".
Trong một đoạn ngắn mà đã có đến hai
lần xác nhận thái độ "bất đắc dĩ". Đấu tranh năm 1963 cũng là bất đắc dĩ
mà thôi. Thêm một "bất đắc dĩ" nữa trong đoạn dưới đây:
"Đạo Phật chỉ thừa nhận sự tương quan
sinh tồn. Đạo Phật dạy cho người ta thấy ở đời phải tự lập chớ không thể
biệt lập. Phật tử không thấy, không tạo nên một đối phương. Vũ trụ là
một lò tương quan; không có gì là trung tâm, không có gì là phụ thuộc,
hay là ngược lại. Bởi thế cho nên phân ly là tự tạo một ung nhọt, mà
chiến đấu (theo nghĩa hẹp) chỉ là tương đối. Chiến đấu phải là một hành
động vì bảo vệ sự sinh tồn mà bất đắc dĩ. Nếu biến sự bất đắc dĩ ấy
thành sự tuyệt đối cần thiết trong mọi trường hợp, thì chiến đấu sẽ trở
thành chiến tranh.
Nhập thế thì chiến đấu hết mình, hy
sinh cả mạng sống. Nhưng tuyệt đối phải biết xuất thế để tẩy ngay cả cái
khái niệm chiến tranh ra khỏi tâm. Khi bắt đầu khởi động phong trào 63,
không mấy ai tin ở thành công. Nhưng bắt buộc chiến đấu thì sẵn sàng
chiến đấu, xem thành bại trong chiến đấu giống như thành bại trong công
việc hoằng pháp hàng ngày, thành thì tốt, mà bại không chừng lại còn tốt
hơn: đó là điều khó hiểu đối với người thường, nhưng đó lại là điều
hiển nhiên của hành động trong Phật giáo:
"Chúng ta đã và vẫn sẵn sàng chấp nhận
cảnh ngộ khó khăn. Điều đó chúng ta không thiệt, trái lại nữa là đằng
khác. Bởi vì việc làm gặp cảnh ngộ dễ dãi thì đó là cảnh ngộ tác thành,
chúng ta có công đức gì đâu. Còn nếu chúng ta chỉ biết nỗ lực mà làm thì
chúng ta vẫn có công đức; còn việc làm ấy có thành hay bại vì cảnh ngộ
chăng nữa, công đức cũng không vì sự thành hay bại ấy mà có hay không
có. Ấy là nói về bản thân người làm. Còn nói hậu quả thì thành cố nhiên
là tốt, mà bại lại càng tốt hơn. Việc làm nào được gọi là chân chính là
phải có sự quy phục của nhân tâm. Mà cảnh ngộ Phật giáo hiện thời, nếu
thành thì nhân tâm đã có, mà nếu bại thì nhân tâm lại càng có hơn. Đó là
sự thật hiển nhiên".
Hành động trái nghĩa với manh động.
Manh động thì rất sợ bại. Mà thường là bại. Nhập thế với cái tâm không
sợ bại, vậy mà thường là thắng. Trong hoàn cảnh chính trị và văn hóa cực
kỳ khó khăn của năm 1963, mấy ai dám tin vào thành công? Vậy mà Phật
giáo vượt qua pháp nạn!
Pháp nạn vượt qua, các nhà lãnh đạo
cảnh giác ngay cái bẫy chính trị luôn luôn rình rập các tôn giáo, khẳng
định lại lập trường cố hữu của mình với ba nguyên tắc cụ thể:
1. Phật giáo không ủng hộ cũng không
chống lại một chính quyền nào; Phật giáo ủng hộ hoặc chống lại các chính
sách. Phật giáo ủng hộ chính sách nào tốt. Phật giáo chống lại chính
sách nào xấu.
2. Trên tiêu chuẩn nào xét đoán chính
sách nào tốt, chính sách nào xấu? Trên tiêu chuẩn phù hợp hay không phù
hợp với tiền đồ của Phật giáo và dân tộc. Phật tử không bao giờ chấp
nhận các chính sách đưa đến những hậu quả tai hại cho Phật giáo và dân
tộc.
3. Phật giáo không nhắm việc nắm chính quyền, dù trực tiếp hay gián tiếp.
Căn cứ trên ba nguyên tắc đó, HT.Thích
Trí Quang, lúc đó là Thượng tọa, kết luận: Phật giáo làm hết sức mình
để phụng sự tổ quốc và dân tộc, chống lại những ai lợi dụng tôn giáo để
tìm cách thống trị chính quyền và dân chúng, và kêu gọi phật tử ủng hộ
hết lòng các chính sách tốt và chống lại các chính sách xấu: đó là "sức
mạnh" mà người ta có thể tìm thấy trong Phật giáo.
Sức mạnh đó là sức mạnh văn hóa. Đời đời không phải là sức mạnh chính
trị mà Phật giáo lánh xa. Bởi vì chính trị không nằm trong bản chất của
Phật giáo. "Phật giáo không thích ứng với chính trị mà thích ứng với văn
hóa. Phật giáo tồn tại bởi dân tộc, không như tôn giáo khác tồn tại vì
chính quyền". Đó là nguyên văn lời khẳng định lặp đi lặp lại bao nhiêu
lần trong suốt mùa bão tố 1963 và sau đó. Trước 1963, Hội Phật giáo đã
xác định tôn chỉ của mình rõ ràng:
"Vì là một tổ chức tôn giáo, nhất là
một tôn giáo dân tộc, hội Phật giáo trung thành với sứ mạng chánh yếu
của mình, sứ mạng củng cố và khai thác nền đạo đức của dân tộc. Hội xác
nhận rằng điều đó thật là tối hệ trọng đối với dân tộc, vì dân tộc muốn
còn là phải còn dân tộc tính, mà dân tộc tính căn bản là nền đạo đức của
dân tộc: đó là một sự thực quá rõ ràng bất cứ được nhìn bằng nhãn giới
nào".
"Phật giáo và văn hóa của dân tộc": đó
không phải là khẩu hiệu suông. Đó là niềm tin sắt đá của người lãnh đạo
phong trào 1963. Tin rằng Phật giáo và văn hóa Việt Nam là một. Tin
rằng Phật giáo phải luôn luôn tự mình xứng đáng để vẫn là một với Việt
Nam. Đạo Phật "nhập thế" là nhập thế vào xã hội, văn hóa, nhắm vào con
người mà cho vui, cứu khổ, nhắm vào đạo đức mà phát huy, nhưng đạo Phật
"siêu thoát" thế gian, nhất là siêu thoát khỏi chính trị. Đời đời.
Tôi trích dẫn trên đây khá nhiều câu
viết của HT.Trí Quang bởì vì lập trường ấy là huyết mạch của phong trào
63. Xuyên qua lập trường ấy, xuyên qua toàn bộ các tác phẩm của vị lãnh
đạo này, nổi bật lên một chữ thôi, một chữ tự nó đủ sức cắt nghĩa tất cả
tinh hoa mà đạo Phật muốn mang cống hiến cho thời đại: chữ "khác".
Trong một thư gửi cho Phật tử Huế, nơi khởi sinh cuộc tranh đấu 1963,
chữ ấy là châm ngôn, là lý tưởng của hành động:
"Phật tử Huế phải làm cho đạo mình
"khác" đạo kẻ khác, chứ không phải làm cho đạo mình "hơn" đạo kẻ khác -
"khác" ở chỗ nêu cao và thể hiện cho được sự khoan hồng và độ lượng của
đức tính Từ bi dầu phải thiệt thòi đến cao độ"
Cái chữ "khác" ấy là gia tài văn hóa
mà đạo Phật đã để lại trong lịch sử. Thể nhập cái gia tài ấy, Phật giáo
Việt Nam tiếp tục viết nên trang sử năm 1963 mà rạng rỡ nhất là ngọn
lửa Quảng Đức.
Sự kiện năm 1963 là một khẳng định văn hóa. Tuyệt đối không phải là một phản ứng chính trị.
Giáo sư Cao Huy Thuần