Khi tôi viết những dòng này thì cha tôi đã bước vào năm thứ 88 của cuộc
đời, và mẹ tôi vừa sang tuổi 81. Cả hai vị tuy vẫn còn khỏe mạnh, nhưng
là cái khỏe mạnh rất mong manh của tuổi già, và không có bất cứ lý do
nào để tôi có thể tin được - dù rất muốn như thế - là các vị sẽ còn ở
lại lâu dài với tôi. Sự thật là trong hàng chục năm qua tôi vẫn luôn
thao thức trăn trở về ngày ra đi của các vị. Là Phật tử, tôi không hề
tránh né sự thật nên vẫn luôn tìm kiếm một phương thức nào đó để có thể
đối mặt và chuẩn bị thật tốt cho những ngày cuối của cha mẹ mình, nhất
là trong ý nghĩa tinh thần. Hơn thế nữa, chính bản thân tôi cũng đã hơn
một lần có thể gọi là “trở về từ cõi chết”, nên tôi có thể cảm nhận sâu
sắc lẽ vô thường một cách cụ thể và tất yếu như những gì mắt thấy tai
nghe chứ không như một lý thuyết trừu tượng có được qua suy tưởng. Mỗi
ngày tôi luôn tự nhắc nhở mình về một sự ra đi có thể vào bất cứ lúc
nào. Vì thế, câu hỏi trước tiên của tôi trong ngày bao giờ cũng là:
“Điều gì cần thiết nhất phải làm nếu hôm nay là ngày cuối của đời mình?”
Và tập sách này đã đến với tôi trong tâm trạng như thế đó. Vì vậy, chỉ
riêng cái tựa đề của nó cũng đã đủ cuốn hút tôi rồi! Thật ra thì cách
đây nhiều năm tôi đã từng chuyển dịch và bình giải quyển Tử thư (Bardo
Thődol) nổi tiếng của Phật giáo Tây Tạng. Tất nhiên là tôi không có và
cũng không đủ khả năng đọc nguyên bản tiếng Tây Tạng, nên đã sử dụng bản
dịch Anh ngữ có tựa đề “The Tibetan Book of the Death” của Lama Kazi
Dawa Samdup. Tuy vậy, tôi tin chắc là mình không đến nỗi bỏ sót bất cứ
nội dung quan trọng nào của tập sách, vì mấy năm sau khi có dịp tiếp xúc
với bản luận giảng Anh ngữ “Death, Intermediate State and Rebirth in
Tibetan Buddhism” của Đại sư Lati Rinbochay thì tôi nhận ra những gì
mình đã hiểu được qua bản dịch cuốn Tử thư cũng hoàn toàn phù hợp với
lời dạy của Đại sư.
Mặc dù vậy, tôi không nghĩ là tất cả Phật tử Việt Nam, chẳng hạn như cha
mẹ tôi, có thể dễ dàng tiếp nhận những ý tưởng được trình bày trong Tử
thư. Nói cho cùng, nếu chưa có được một nền tảng hiểu biết nhất định về
Phật giáo Tây Tạng cũng như một đức tin vững chắc - thậm chí là tuyệt
đối - vào những gì được thuyết dạy trong Tử thư, thì người đọc sẽ rất
khó lòng tiếp nhận được những ý nghĩa tuy rất sâu xa nhưng hết sức trừu
tượng và cô đọng được chuyển tải trong đó. Đây cũng chính là lý do vì
sao trong một quãng thời gian dài rất lâu trước đây tập sách này không
được phổ biến rộng rãi mà chỉ dành riêng cho các vị hành giả, các bậc
thầy đang đảm nhiệm việc phù trợ, giúp đỡ những người lâm chung hoặc vừa
mới qua đời.
Nhưng việc tiếp nhận nội dung tập sách “Phù trợ người lâm chung” này lại
là một điều hoàn toàn khác, mặc dù nó cũng được thuyết giảng bởi một vị
Đại sư thuộc Phật giáo Tây Tạng và cũng nói về cùng một chủ đề như
quyển Tử thư. Từ khi bắt đầu đọc những dòng đầu tiên, tôi đã hầu như
không thể rời mắt ra cho đến những dòng cuối cùng. Tôi như người đang
trong cơn khát cháy bỏng vội vàng uống lấy từng ngụm nước trong mát đổ
xuống từ cơn mưa Pháp này. Và lạ lùng thay, là một người tu tập theo
pháp môn Tịnh độ, lần đầu tiên tôi bất ngờ nhận ra rằng những điều được
thuyết giảng ở đây là hoàn toàn phù hợp với giáo lý Tịnh độ mà tôi đã
từng được biết. Nói cách khác, theo nhận thức của riêng tôi thì tập sách
này có thể xem như cầu nối quan trọng giữa những phần giáo pháp về sự
chết trong Phật giáo Tây Tạng với pháp môn Tịnh độ vốn vô cùng quen
thuộc với đa số Phật tử Việt Nam. Qua tập sách này, người đọc có thể
nhận ra những khác biệt trong cách biểu đạt của hai nền giáo pháp, nhưng
thực sự là hoàn toàn tương đồng về mặt nội dung, ý nghĩa.
Vì thế, điều trước tiên tôi nghĩ đến sau khi đọc xong bản Việt dịch sách
này là phải làm sao chia sẻ Pháp bảo này đến với tất cả mọi người. Hoan
hỷ thay, dịch giả là chị Diệu Hạnh Giao Trinh (Paris, Pháp quốc) đã tán
thành ý định của tôi và hết lòng khuyến trợ. Chị đã kính cẩn trình lên
Đại sư Dagpo Rinpoche ý định này và được ngài hoan hỷ chuẩn thuận. Từ
đó, chúng tôi đã cùng nhau nỗ lực làm việc để có thể sớm giới thiệu bản
dịch này đến với độc giả.
Thật ra, những lời dạy mà Đại sư đã ban ra là hết sức hoàn chỉnh. Nhưng
vì toàn bộ nội dung này được đưa ra trong các Pháp hội khác nhau, dành
cho một số thính chúng nhất định, nên cách trình bày tất nhiên có phần
khác với một quyển sách. Đại sư hoàn toàn không có ý định biên soạn một
quyển sách, và việc ghi chép lại nội dung để rồi chuyển dịch, in ấn và
phổ biến là những việc tùy duyên mà phát sinh, không nằm trong chủ đích
ban đầu của người thuyết giảng. Tuy vậy, Ngài đã hết sức hoan hỷ tán trợ
khi biết được việc làm của chúng tôi, và thậm chí đã dành thời gian chú
nguyện cho công việc của chúng tôi luôn được thuận lợi, tốt đẹp.
Nhân đây cũng xin lược nói qua đôi dòng về Đại sư Dagpo Rinpoche (Dagpo
Rimpoch - Lobsang Jhampel Jhampa Gyamtshog), một trong những bậc cao
tăng hiếm hoi của thời đại này. Ngài sinh năm 1932 tại Nandzong, vùng
Dagpo thuộc Đông nam Tây Tạng, và cũng năm ấy Ngài được đức Đạt-lai
Lạt-ma thứ 13 Thubten Gyatso (1876-1933) xác nhận là hóa thân tái sanh
của Đại sư Dagpo Lama Rinpoche Jampel Lhundrup thuộc dòng truyền thừa
Gelupa, từng là Viện trưởng Viện Dagpo Datsang ở vùng Dagpo. Năm lên
sáu, Ngài được đưa vào học tại Tu viện Bamchoe (Bamchoe Monastery) và
đến năm 13 tuổi Ngài được theo học ở Viện Dagpo Datsang (Dagpo Shedrup
Ling), vốn nổi tiếng hết sức nghiêm khắc và kỷ cương. Tiêu chuẩn đào tạo
của Viện này là rất cao xét về mọi lãnh vực Phật học, nhưng đặc biệt là
hết sức chú trọng vào giáo pháp Lam-rim. Đại sư Dagpo Rinpoche từng
được theo học với 34 bậc thầy uyên bác về Phật học, trong số đó có cả
đức Đạt-lai Lạt-ma 14 và hai bậc thầy dạy của ngài là Kyabje Ling
Rinpoche và Kyabje Trijang Rinpoche.
Đại sư Dagpo Rinpoche học tại Datsang cho đến năm 1954. Năm 1959, Ngài
theo đức Đạt-lai Lạt-ma thứ 14 sang Ấn Độ rồi ngay năm sau đó Ngài sang
định cư ở Pháp theo lời mời của các giáo sư Đại học và sự cho phép của
đức Đạt-lai Lạt-ma. Tại đây, Ngài dạy tiếng Tây Tạng ở trường Langues O
trong suốt 16 năm, nhưng không giảng dạy Phật pháp vì xét thấy chưa đủ
cơ duyên. Từ năm 1976, vâng theo huấn thị của các bậc thầy của Ngài,
Ngài bắt đầu việc giảng dạy Phật pháp. Năm 1978, Ngài thành lập Phật học
viện Guepele Tchantchoup Ling (sau đó trở thành Ganden Ling Institute)
tại Paris. Hiện nay Ngài vẫn thường xuyên thuyết giảng tại Phật học viện
này.
Vừa dạy Tạng ngữ, Ngài vừa đào tạo nhiều dịch giả, trong số đó có cô
Marie Stella Boussemart chuyên dịch Tạng-Pháp và cô Rosemary Patton
chuyên dịch Tạng-Anh. Họ đã theo Ngài trong tất cả các chuyến đi thuyết
giảng khắp các nước như Italy, Switzerland, Holland, Belgium, Canada,
Anh, Hoa Kỳ, Ấn Độ, Indonesia, Malaysia... và đặc biệt là ngay tại Pháp
quốc.
Từ năm 2006 đến 2008, Ngài đã năm lần liên tiếp thuyết giảng về đề tài
“phù trợ người lâm chung”, mỗi lần kéo dài suốt hai ngày. Từ cơ duyên
này, cô Marie Stella Boussemart đã thực hiện việc ghi chép tổng hợp nội
dung của cả năm lần thuyết giảng thành một bản tiếng Pháp. Và chính nhờ
đó mà chúng ta có được bản Việt dịch của đạo hữu Giao Trinh từ bản tiếng
Pháp này.
Công việc chính của chúng tôi chỉ là rà soát lại toàn bộ bản Việt dịch
để loại bỏ tất cả những sai sót trong việc ghi chép, chuyển dịch; đồng
thời cũng thực hiện một số thay đổi cần thiết và thích hợp để chuyển từ
lối văn nói sang phong cách văn viết. Những việc làm này đều nhắm đến
một mục đích duy nhất là giúp người đọc có thể nhận hiểu dễ dàng hơn nhờ
vào những cách diễn đạt rõ ràng, mạch lạc, và tất nhiên là vẫn trên
tinh thần tôn trọng tuyệt đối những gì Đại sư đã nói ra. Đôi khi, chúng
tôi cũng thêm các tiểu tựa hoặc phân đoạn lại một vài nơi, nhằm tạo ra
một kết cấu chặt chẽ và hoàn chỉnh hơn cho tập sách. Xét cho cùng, từ
những nội dung được trình bày cho một thính chúng cá biệt vào một thời
điểm nhất định, có phần nào đó mang tính chất ứng cơ và tùy biến đối với
người nghe, thì việc chuyển sang thành một quyển sách có kết cấu hoàn
chỉnh dành cho tất cả mọi người không thể là một chuyện dễ dàng và có
thể tùy tiện được. Vì thế, chúng tôi đã hết sức cẩn trọng trong công
việc và luôn cố gắng để hạn chế mọi sai sót. Mặc dù vậy, nếu có những
khuyết điểm nào thuộc về phần việc của chúng tôi làm cho độc giả cảm
thấy không được hài lòng hoặc khó tiếp nhận, chúng tôi xin chân thành
nhận lỗi về mình vì chắc chắn điều đó chỉ có thể là do khả năng hạn chế
cũng như tầm nhận thức còn chưa thấu triệt của bản thân chúng tôi mà
thôi.
Trở lại với nội dung sách này, đây có thể nói là một chủ đề vừa quen vừa
lạ đối với hầu hết chúng ta. Nói là quen, vì có mấy ai trong chúng ta
lại chưa từng một lần đối diện với cái chết của một trong những người
thân của mình? Hơn thế nữa, còn có điều gì tương đồng và phổ biến đối
với tất cả chúng ta hơn là cái chết? Kể từ khi ta mở mắt chào đời, cái
chết đã bắt đầu lừng lững tiến dần về phía chúng ta, không thể tránh né,
không thể ngăn chặn, cũng không thể làm cho chậm lại... Cứ như thế, tất
cả chúng ta đều hoàn toàn bất lực trong sự chờ đợi một sự kiện kinh
hoàng không sao tránh khỏi là cái chết.
Thế nhưng cái chết cũng là một sự kiện hoàn toàn xa lạ đối với tất cả
chúng ta. Bởi không ai trong chúng ta đã từng tự mình trải nghiệm cái
chết! Chúng ta chỉ nhìn thấy người khác chết và được nghe nói về cái
chết từ những người... chưa bao giờ chết. Nếu đã thế thì làm sao ta có
thể biết được gì về cái chết? Thử hình dung, khi cơ hội đến với ta để
thực sự cảm nhận và hiểu biết được đôi điều về cái chết, thì cũng đã
không còn cơ hội nào nữa để ta có thể kể lại về những kinh nghiệm tự
thân đó cho tất cả mọi người. Ít ra thì điều này cũng là đúng với hầu
hết những người bình thường. Và vì thế, mặc dù “cánh cửa tử” là rất gần
và có thể mở ra với mỗi chúng ta bất cứ lúc nào, nhưng những gì “bên kia
cửa tử” dường như vẫn là một bí ẩn muôn đời đối với những kẻ phàm phu.
Nhưng may mắn thay cho cho tất cả chúng ta, vì một đại sự nhân duyên nên
cách đây hơn 25 thế kỷ đức Phật Thích-ca Mâu-ni đã ra đời. Với trí tuệ
toàn giác, Ngài là người đầu tiên đã có thể mô tả về cảnh giới sau khi
chết cũng như mọi tiến trình diễn tiến của sự chết. Những điều này được
Ngài thấy biết như thật bằng vào sự thực chứng của kinh nghiệm tự thân,
hoàn toàn không xuất phát từ bất kỳ một lý thuyết suy diễn nào. Hơn thế
nữa, những phương pháp tu tập để đạt đến sự chứng nghiệm về sự chết đã
được Ngài truyền dạy lại, và từ đó đến nay đã có vô số các vị đại sư,
hành giả... thực hành thành công, đạt đến sự thấy biết như thật về sự
chết và mọi tiến trình của nó. Sự chứng nghiệm này là nền tảng quan
trọng giúp các vị kiểm soát được hoàn toàn sự chết và tái sinh, hay ít
ra cũng là có thể tự chọn lấy một con đường lợi lạc hơn, tốt đẹp hơn cho
chính bản thân mình sau khi chết.
Phật giáo luôn xem vấn đề sống chết là điều quan trọng nhất cần phải
được nhận hiểu một cách thấu đáo. Đây là điểm tương đồng giữa tất cả các
tông phái khác nhau trong Phật giáo. Thiền tông luôn quan niệm sinh tử
là việc tối quan trọng của một thiền giả, và chính vì cái “sinh tử sự
đại” này mà thiền sư Huyền Giác khi đến tham bái Lục tổ đã chống tích
trượng đứng trơ trơ không lễ lạy! Chỉ sau khi giải quyết xong chuyện tối
quan trọng này rồi ngài mới chí thành phủ phục lễ bái Tổ sư. Vì thế, có
thể nói người tu Thiền không sợ chết, nhưng lại sợ nhất là không hiểu
rõ về cái chết. Một khi chưa thấu triệt vấn đề sinh tử, hay nói một cách
khác là chưa biết chắc được mình sẽ đi đâu về đâu sau khi chấm dứt cuộc
sống này, thì hành giả dù có miên mật công phu đến đâu cũng chưa thể
xem là đã nắm chắc được mục tiêu giải thoát.
Đối với các hành giả Mật tông thì điều này lại càng dễ dàng nhận thấy
hơn. Toàn bộ công phu hành trì tu tập của một hành giả trong suốt cuộc
đời hầu như chỉ hướng đến một mục đích duy nhất là chuẩn bị cho cái
chết. Sở dĩ như thế là vì theo Mật tông thì trừ ra một số rất ít các vị
đại hành giả có thể đạt được chứng ngộ và giải thoát ngay trong đời
sống, còn đối với hầu hết mọi người thì thời điểm chết sẽ là cơ hội tốt
nhất, thuận lợi nhất để một hành giả đạt được sự giải thoát. Kinh điển
Mật tông dạy rằng, khi thân tứ đại tan rã cũng là thời điểm tâm thức sẽ
có một sự “lóe sáng” rất gần với tâm thức giác ngộ, và nếu chúng ta
không có sự tu tập để tận dụng cơ hội này thì sau đó nghiệp lực sẽ hiện
hành, tiếp tục xô đẩy, dẫn dắt chúng ta vào các cảnh giới tái sinh trong
sáu nẻo luân hồi.
Riêng đối với những người tu tập theo pháp môn Tịnh độ thì sự chết chính
là đích đến của một đời tu tập. Giáo lý Tịnh độ không nói nhiều về tiến
trình của sự chết, nhưng xác quyết một điều là chắc chắn có sự tái sinh
sau khi chết. Trên căn bản đó, nếu người tu chuẩn bị tốt các món tư
lương là tín, nguyện và hạnh thì chắc chắn sẽ được sự tiếp dẫn của đức
Phật A-di-đà cùng Thánh chúng và được vãng sinh về cõi Tịnh độ của Ngài.
Thật ra, kinh điển Mật tông cũng nhắc đến sự tiếp dẫn của chư Phật,
nghĩa là rất nhiều vị Phật ở các cõi Tịnh độ khác nhau chứ không chỉ
riêng đức Phật A-di-đà, và việc vãng sinh về cõi Tịnh độ nào là tùy theo
sự phát nguyện của hành giả. Theo sách Đại Đường Tây vực ký thì ngài
Tam tạng Pháp sư Huyền Trang đã phát nguyện vãng sinh lên cõi Tịnh độ
của đức Bồ Tát Di-lặc, tức là cung trời Đâu-suất. Trước giờ lâm chung,
Ngài đã được nhìn thấy những điềm lành rõ rệt báo trước sự vãng sinh của
Ngài, và Ngài đã nói với các đệ tử một cách chắc chắn về việc Ngài sẽ
tái sinh lên cung trời Đâu-suất để tiếp tục học hỏi giáo pháp với Bồ Tát
Di-lặc.
Như vậy, cho dù là Thiền tông, Mật tông hay Tịnh độ... sự tương đồng ở
đây chính là một nỗ lực tích cực trong suốt cả cuộc đời để hướng đến
việc chuẩn bị tốt cho giây phút cuối đời. Mỗi tông phái có những pháp
môn khác nhau để đạt đến mục đích này, nhưng đi vào luận giải thì tất cả
đều tương hợp, tuy có những nét khác biệt nhau trong hình thức biểu đạt
nhưng không hề có sự mâu thuẫn về nội dung, ý nghĩa. Chính bản thân tôi
sau khi được đọc qua những lời giảng của Đại sư Dagpo Rinpoche trong
tập sách này mới nhận ra và xác quyết điều đó.
Vì thế, tôi tin chắc một điều là tập sách này không chỉ dành riêng cho
những ai đang tu tập theo Phật giáo Tây Tạng. Sự thật là những lời dạy
của Đại sư Dagpo Rinpoche có thể mang đến lợi lạc cho tất cả chúng ta,
không chỉ những người Phật tử mà kể cả những người theo tôn giáo khác,
và không chỉ cho những người có tín ngưỡng mà kể cả những ai chưa đặt
niềm tin vào bất cứ tôn giáo nào.
Vì sao vậy? Vì những gì được đề cập ở đây là những vấn đề rất thiết thực
có liên quan đến mọi con người và mỗi người chúng ta đều có thể tự mình
kiểm nghiệm tính đúng đắn của những vấn đề đó ngay trong cuộc sống; vì
những phương thức được đề xuất ở đây là những điều mà bất cứ ai cũng có
thể làm được nếu có một chút lưu tâm và nỗ lực, và đều sẽ nhận được
những lợi lạc vô biên từ việc thực hành những phương thức đó; và cuối
cùng là vì dù muốn hay không muốn, dù tin hay không tin thì tất cả chúng
ta đều phải đối mặt từng ngày trước cái chết đang đến gần với những
người thân yêu của mình, rồi cuối cùng là cái chết của chính bản thân
mình. Suy cho cùng, cho dù ai đó chưa có niềm tin vững chắc vào những gì
được trình bày ở đây thì liệu họ có thể có được một lựa chọn nào khác
để giải quyết vấn đề sống chết? Và đã thế thì, sao không thử qua một lần
cho biết nhỉ?
Những lời dạy của Đại sư Dagpo Rinpoche trong sách này nói riêng và Phật
pháp nói chung đã mang lại quá nhiều lợi lạc cho bản thân tôi và cả gia
đình tôi. Vì thế, tấm lòng tri ân thành kính của chúng tôi đối với Tam
bảo là không thể nói hết ở đây. Việc cố gắng giới thiệu sách này đến với
tất cả mọi người chỉ là một trong những nỗ lực nhỏ nhoi để đáp đền hồng
ân Tam bảo, mặc dù chúng tôi luôn tự biết về khả năng hạn chế và kiến
thức giới hạn của chính bản thân mình trước công việc khó khăn này. Trên
tinh thần đó, chúng tôi xin hoan hỷ đón nhận mọi sự góp ý chỉ dạy từ
các vị thức giả gần xa, để những sai sót nếu có đều sẽ được chỉnh sửa
trước khi tái bản.
Mong sao tất cả những ai có duyên may gặp được sách này đều sẽ nhận được
những lợi ích vô biên từ Phật pháp, hoặc chí ít cũng sẽ cất đi được cái
gánh nặng muôn đời của nỗi ưu tư về cái chết.
Mong sao tất cả những ai hiện đang và sẽ đối mặt với nỗi kinh hoàng của
cái chết đều sẽ nhận được sự quan tâm giúp đỡ thích đáng từ những người
còn sống để không phải cảm thấy sợ hãi và bơ vơ lạc lõng khi sắp cất
bước lên đường, trước một cuộc hành trình chưa biết sẽ về đâu.
Mong sao tất cả những ai đã, đang hoặc sẽ phải đối mặt với cái chết của
những người thân yêu đều sẽ nhận hiểu được những lời dạy sáng suốt này
để có thể tự mình xua tan mọi nỗi lo sợ và đau khổ, có thể thắp lên ngọn
đèn Chánh pháp vào đúng lúc để giúp soi rõ con đường đi bên kia cửa tử
cho người lâm chung.
Cuối cùng, thay mặt tất cả những ai đã, đang và sẽ nhận được vô vàn lợi
ích từ tập sách này, xin kính dâng lên Đại sư Dagpo Rinpoche lòng biết
ơn chân thành đối với tâm từ bi vô hạn và những lời thuyết giảng đầy trí
tuệ của Ngài; xin cảm niệm công đức vô lượng của cô Marie Stella
Boussemart, người đã thực hiện ghi chép bản Pháp ngữ, và đạo hữu Giao
Trinh, người đã chuyển dịch từ Pháp ngữ sang Việt ngữ với một sự cẩn
trọng và tâm nguyện vị tha rộng lớn; xin tri ân tất cả các thiện tri
thức, các thân hữu gần xa đã góp phần trực tiếp cũng như gián tiếp, vật
chất cũng như tinh thần cho sự hình thành và ra đời của tập sách này.
Xin hồi hướng mọi công đức về cho toàn thể pháp giới chúng sinh, nguyện
cho tất cả đều sẽ phát tâm Bồ-đề, tinh tấn tu tập và sớm đạt được giác
ngộ viên mãn.
Trân trọng
NGUYỄN MINH TIẾN