Trong
lịch sử dân tộc Việt Nam, vị thủy tổ đầu tiên về nguồn gốc của dân tộc
Việt Nam là do Lạc Long Quân gặp nàng Âu Cơ ở Động Đình Hồ, sau đó sinh
ra một cái bọc trăm trứng, từ bọc đó nở ra trăm người con. Lạc Long Quân
là cốt Rồng, Âu Cơ là cốt Tiên, khi sinh ra 100 người con như vậy, Rồng
vốn ở nước, Tiên ở núi cho nên mới chia 100 người con ra hai phần: 50
người đi theo cha xuống biển, 50 người đi theo mẹ lên núi, từ đó dân tộc
ta có nguồn gốc là con Rồng cháu Tiên.
Khi
dân tộc ta có nguồn gốc con Rồng cháu Tiên thì chúng ta là dòng giống
Rồng Tiên. Dòng giống Rồng Tiên vốn là dòng giống cao cả, oai phong,
dũng cảm. Rồng Tiên có sức mạnh phi thường và khả năng biến hóa khôn
lường.
Đời
Lý có vua Lý Công Uẩn, con nuôi của Thiền sư Lý Khánh Vân, được sự dạy
dỗ giúp đỡ của Thiền sư Vạn Hạnh, là hai vị Thiền sư đầu đời Lý rất nổi
tiếng về đạo hạnh và trí tuệ thông bác hơn người.
Khi
ấy gặp lúc vua Lê Ngọa Triều cuối đời Tiền Lê là một vị hôn quân, sa
đọa, hung ác, dân tình oán thán. Vua này ăn chơi trác táng nên đã sinh
bệnh không thể ngồi dậy thiết triều được, mỗi khi thiết triều chỉ nằm mà
thôi, cho nên có danh là Lê Ngọa Triều. Trước tình hình như vậy, ngài
Vạn Hạnh Thiền sư cùng Đào Cam Mộc, một vị đại thần trong triều sắp đặt
đưa Lý Công Uẩn lên làm vua, lập nên triều đại nhà Lý trị vì trên 200
năm rất vững chắc.
Khi
lên ngôi, vua tự xưng là Lý Thái Tổ. Từ đất Hoa Lư, vua Lý Thái Tổ nghĩ
rằng, đất nước đã độc lập, không thể ở một nơi đất đai chật hẹp, giao
thông không thuận tiện, ngài nghĩ, tại sao trẫm không dời đô về một chỗ
khác cho thuận tiện hơn cho việc triều chính, tiện cho việc đối nội lẫn
đối ngoại. Từ đó vua mới ra chiếu dời đô về đất Hà Nội bây giờ. Trong
khi về đến Hà Nội thấy một con Rồng vàng bay lên, nên vua mới lấy đó để
đặt cho Kinh đô nước ta là Thăng Long. Thăng Long là thủ đô của nước
Việt Nam lúc bấy giờ. (Thăng Long tức là Rồng bay lên). Rồng bay lên thì
cũng có thể hạ xuống, chỗ hạ xuống là ở tỉnh Bắc Ninh, nên mới có Vịnh
Hạ Long, tức là vịnh Rồng hạ xuống.
Rồng
bay lên từ Hà Nội lấy thủ đô là Thăng Long và hạ xuống ở vịnh Hạ Long
(tỉnh Bắc Ninh). Chỗ này bây giờ là một di tích thiêng liêng và là kỳ
quan thế giới được Liên hiệp quốc công nhận.
Ở
miền Nam có một con sông gọi là sông Cửu Long, tức là sông có 9 con
Rồng (tức chín luồng nước hợp lại như chín con Rồng giao nhau), và có
bến Nhà Rồng ở thành phố Hồ Chí Minh. Như thế là Việt Nam chúng ta từ vị
khai tổ ở Bắc, nguồn gốc đầu tiên theo truyền thuyết là Lạc Long Quân
và nàng Âu Cơ, đến khi Lý Thái Tổ lên ngôi vua và hạ chiếu dời đô về Hà
Nội, đặt tên là Thăng Long, rồi có vịnh Hạ Long ở Bắc Ninh là nơi Rồng
hạ xuống, tất cả đều có dính dáng đến Rồng.
Như
vậy nước Việt Nam chúng ta từ ải Nam Quan đến mũi Cà Mau đầu, đuôi và
giữa đều có Rồng. Theo địa lý thì miền Bắc là đầu Rồng, ở giữa cố đô Huế
cũng có bệ Rồng (triều nhà Nguyễn) là mình, và vào trong Nam là chân
Rồng, đâu đâu cũng có Rồng hết. Mà Rồng là một linh vật nhanh nhẹn,
thông minh, biến hóa khôn lường, đó là một hình tượng rất được dân chúng
ưa chuộng. Việt Nam chúng ta là con Rồng cháu Tiên thì chúng ta phải
bảo vệ, xây dựng và giữ gìn nó như thế nào để xứng đáng là con Rồng cháu
Tiên.
Như vậy là tôi đã nói sơ lược về Rồng có dính đến truyền thuyết dân tộc Việt Nam ta.
Bây giờ tôi nói Rồng có liên quan đến kinh điển Phật giáo. Trong kinh sách Phật có 3 lần Rồng xuất hiện.
Lần
thứ nhất là lúc Đức Phật Giáng sinh thì có 9 con Rồng phun nước tắm cho
Phật, gọi là Cửu Long phún thủy (Chín con Rồng phun nước để tắm cho
Phật). Đó là một tích sử rất xa xưa, bây giờ ở miền Trung ít thấy, còn
miền Nam thì nhiều. Các chùa miền Nam khi họ khắc hoặc chạm trổ tượng,
bao giờ cũng có tượng Đản sinh, xung quanh có 9 con Rồng đứng hầu, là
lấy tích sử Đức Phật ra đời có 9 con Rồng phun nước tắm cho Phật. Đó là
Rồng xuất hiện trong kinh sách Phật giáo lần thứ nhất.
Lần
thứ hai là trên đường Đức Phật đi giáo hóa sau khi Ngài Thành đạo. Sau
ngày Thành đạo, Ngài đến Lộc Uyển thuyết pháp độ cho 5 vị Tỳ kheo Kiều
Trần Như xong, Ngài liền nghĩ đến hạng căn cơ nào tiếp theo có thể tiếp
nhận được giáo lý của Ngài? Ngài quán biết tại xứ Ấn Độ lúc bấy giờ có 3
anh em ông Ca-diếp gọi là Ưu-lâu-tần-loa Ca-diếp, Già-da Ca-diếp và
Na-đề Ca-diếp, rất nổi tiếng là hàng ngoại đạo rất được kính trọng mà ở
đấy họ đang thờ Thần lửa. Ngài muốn hóa độ cho 3 anh em Ca-diếp bằng
cách: Hôm ấy Ngài đi qua chỗ cư trú của ông Ca-diếp anh, thì trời tối
nên xin vào ở trọ và ngủ lại. Ông anh Ưu-lâu-tần-loa Ca-diếp thấy Ngài
hình dung phương phi rạng rỡ, nét mặt thanh thoát, tự tại, giải thoát,
ông liền hỏi Ngài: Đạo nhơn có mạnh khỏe không mà xem người vui vẻ như
thế? Ngài mới trả lời rằng: "Vô bệnh đệ nhất lợi, thiểu dục tri túc đệ
nhất phú, thành tín đệ nhất thân, Niết-bàn đệ nhất lạc" (không bệnh là
lợi nhất, biết đủ là giàu nhất, thành tín là thân nhất, Niết-bàn là vui
nhất). Vì Phật giáo có những cái nhất như thế nên Phật tử chúng ta khi
học hỏi giáo lý của Ngài, đã thâm nhập giáo lý ấy thì cũng rất tự tại và
an vui.
Ngài
nói xong rồi và hỏi: Ông có bằng lòng cho tôi trọ lại một đêm không?
Ông ta trả lời: Cho Đạo nhơn trọ lại tôi không tiếc gì; nhưng tiếc rằng
bây giờ đây Tăng chúng đồ đệ của tôi đông quá, không có chỗ để cho Ngài
tạm trú, duy chỉ còn một chỗ ở nơi đền thờ Thần Lửa ở bên góc kia, Ngài
có thể tạm trú ở đó có được không? Ngài nói, chỗ nào cũng được, ông chỉ
cho tôi trọ lại một đêm thì tôi cám ơn vô cùng. Khi đó ông
Ưu-lâu-tần-loa Ca-diếp nói rằng: Tuy tôi nói là nói vậy, nhưng trong đền
thờ Thần Lửa đó nguy hiểm lắm, tôi sợ tánh mạng của Ngài bất an, không
toàn vẹn được, vì trong đó có con Hỏa Long (Rồng Lửa), hễ người nào vào
đó lạ hơi thì nó sẽ phun khói, phun lửa ắt sẽ bị tiêu hết, không cách gì
tránh được. Ngài nói cám ơn và xin ông chớ lo. Ông vui lòng chấp nhận
cho tôi ở là tốt lắm rồi.
Đến
khi Đức Phật vào ở trong đền thờ Thần Lửa đó, con Rồng Lửa ngửi thấy
mùi hơi lạ, nó từ trong động trườn ra phun khói. Khi khói phun tới chỗ
Ngài, nhưng lạ thay, khói đó dội ngược trở lại nơi chính nó. Nó lại phun
lửa, lửa chưa tới Ngài mà dội ngược lại nơi nó. Khi đó con Rồng Lửa mất
hết cả thần thông, không làm sao hại Ngài được, nên nó gô mình lại
(cuộn tròn) nằm cong núp vào một góc để tránh khói lửa do nó phun ra.
Thấy vậy, động lòng từ bi, Đức Phật liền đưa bình bát ra và con Rồng Lửa
bay vào đó để lánh nạn, nên trong kinh có chữ hàng Long phục Hổ (hàng
phục Rồng và hàng phục Cọp). Vì sao Ngài hàng phục được các loài hung dữ
như vậy? Vì Ngài lấy đức từ bi, lấy lửa tam-muội để hàng phục các loài
hung dữ ấy.
Lại
nói ông Ca-diếp anh, khi thấy lửa trong đền nổi lên, thầy trò ông liền
hối nhau múc nước để dội vào trong đền. Thầy trò ông càng dội nước, thì
lửa càng bùng lên dữ dội, không cách nào dập tắt được. Ông lấy làm lo
lắng cho tính mạng của Ngài và đâm ra hối hận vì đã để Ngài ngủ trong
đó.
Bất
thình lình, Đức Phật ung dung ôm bình bát từ trong đền thờ Thần Lửa
bước ra, thầy trò ông Tần-loa Ca-diếp vô cùng ngạc nhiên, kính phục và
bước lại hỏi Ngài. Thưa Đạo nhơn, lâu nay không có ai dám đối địch với
con Rồng Lửa hung dữ này cả, nay sao Đạo nhơn hàng phục nó một cách dễ
dàng như vậy? Khi gặp Đức Phật ông ta trầm trồ ngợi khen Đức Phật, nhưng
trước mặt đồ chúng đệ tử của ông, ông lại nói: Tuy Đạo nhơn ấy có thần
thông như vậy nhưng chưa bằng ta.
Khi
đệ tử vào trong động để đốt lửa thì lửa không cháy. Ông Ưu-lâu-tần-loa
Ca-diếp nghĩ chắc đây là ông Đạo nhơn làm cho lửa không cháy, chứ không
ai vào đây hết, liền quay qua hỏi Đức Phật có đúng không? Đức Phật trả
lời: Phải, chính Ta làm. Phật hỏi lại. Vậy các ngươi có muốn đốt lửa lên
không? Ưu-lâu-tần-loa Ca-diếp thưa: Dạ, ưng lắm. Vì chúng tôi đang thờ
Thần Lửa nên chúng tôi phải đốt lửa cho cháy mãi mãi, không được để cho
lửa tắt. Ngài bảo họ tới đốt thì lập tức lửa bừng cháy và cháy mãi, cháy
cao, không tài nào làm cho ngọn lửa nhỏ lại được. Ông Ca-diếp anh nói,
chắc là vị Đạo nhơn này làm rồi chứ không con ai lẫn vào đây nữa! Ông
liền hỏi Ngài có phải Ngài làm không? Đức Phật trả lời: Phải. Phật hỏi
lại, thế các ngươi có muốn tắt lửa không? Ông mừng quá nói: Dạ muốn.
Phật lấy tay chỉ vào thì lửa tắt. Đến khi hết củi để đốt, đồ đệ đem búa
ra bửa thì búa mới nhấc lên trời thì không tài nào hạ xuống được. Ông
Ưu-lâu-tần-loa Ca-diếp nói: Chắc ông Đạo nhơn này làm chứ không ai khác?
Ông liền hỏi Phật, có phải Đạo nhơn làm không? Phật nói: Phải. Vậy các
ngươi có muốn hạ búa xuống không? Ông nói: Dạ muốn. Thế là Phật chỉ tay
một cái thì búa liền hạ xuống.
Tuy
thấy thần lực của Đức Phật như vậy, nhưng ông Ưu-lâu-tần-loa Ca-diếp tự
ái nghĩ rằng, xưa nay mình lãnh đạo một số đồ công chúng đông đảo và tự
cho mình đã đắc thần thông, giờ đây phép thần thông của ông Đạo nhơn
này quá vượt trội mình. Tuy vậy, trước mặt đệ tử ông, ông vẫn luôn miệng
nói: Mặc dầu vậy nhưng vẫn chưa bằng ta. Ta đã chứng quả A-la-hán rồi,
chứ ông Đạo nhơn này chưa chứng quả A-la-hán. Đức Phật với tâm mình biết
tâm của người khác liền nói: Này ông bạn tốt, ông nói như vậy là không
đúng sự thật, ông chưa chứng được A-la-hán. Vì nếu ông đã chứng quả
A-la-hán rồi thì không còn tâm hơn thua so sánh. Giờ ông còn cái tâm
niệm ngã nhơn hơn thua đó chưa hết, ông chưa phải là người đã chứng quả
A-la-hán.
Thường
lệ đã thành truyền thống, đầu năm mới rằm tháng giêng, các Phật tử đều
đến chùa làm lễ cầu an. Trước hết là cầu an cho mình và sau đó là cầu an
cho gia đình và xã hội. Đây là một việc làm tốt đẹp để un đúc Bồ-đề tâm
và thực hành Bồ-tát hạnh.
Hôm
nay là ngày đầu tiên tụng kinh Pháp Hoa cũng là thực hiện ước muốn đó,
thay mặt chư Tăng, tôi chúc các Phật tử thân tâm an lạc và cầu nguyện
chư Phật, chư vị Bồ-tát, chư vị thiện thần gia hộ cho gia đình các Phật
tử và tất cả chúng ta đều được an lành, cát tường như ý.
Năm nay là năm Rồng, tôi sẽ nói chuyện Rồng trong kinh điển Phật giáo và dân tộc Việt Nam.
Rồng
là con vật như thế nào? Chưa ai thấy hết, nhưng khắp nơi trên thế giới
rất nhiều người tin tưởng có Rồng và hình dung con Rồng mỗi nơi mỗi
khác. Ở Ấn Độ gọi Rồng là Naga, Trung Hoa gọi là Long, Việt Nam ta gọi
là Rồng. Đó là con vật có hình dạng mình rắn, đầu sư tử, chân cọp. Tuy
là tưởng tượng nhưng nó đã trở thành tín ngưỡng phổ thông, rất được quần
chúng yêu mến, họ vẽ ra nhiều cách và chính trong sách vở thời xưa,
hình dáng con Rồng cũng khá phong phú không kém ngày nay.
Khi
đó Ưu-lâu-tần-loa Ca-diếp mới kính phục Đức Phật và nói: Thưa Đạo nhơn,
tôi biết cái đạo của Ngài cao hơn cái đạo của tôi, và cho tôi xin làm
đệ tử với Ngài. Đức Phật liền chấp nhận. Thế là ông Ưu-lâu-tần-loa
Ca-diếp anh trở thành đệ tử của Đức Phật cùng với 500 đồ chúng đệ tử của
ông. Khi đã làm đệ tử của Phật rồi thì bao nhiêu khí cụ thờ Lửa ông sai
đem liệng xuống sông Hằng.
Hai
người em cũng tu theo đạo thờ Thần Lửa như anh mình ở khúc dưới sông
Hằng, thấy đồ thờ Thần Lửa của anh mình sao trôi bồng bềnh trên sông như
vậy, họ đoán chắc anh mình có tai nạn gì xảy ra rồi đây. Hai người em
liền đi ngược dòng sông để tìm hiểu thực hư ra sao, thì gặp anh mình và
đồ chúng đi theo sau Đức Phật. Họ lấy làm lạ vô cùng vì nghĩ anh mình là
người có uy tín, tu theo đạo Thờ Lửa là đạo cao thượng, tại sao giờ lại
đi theo sau ông Đạo nhơn lạ lùng thế này? Họ liền hỏi anh thì được
người anh kể lại cho nghe hết mọi chuyện về Đức Phật. Khi ấy hai người
em thấy đạo lực anh mình cao cường như vậy mà cũng thua Phật, liền bàn
bạc với nhau và cuối cùng, họ xin đi theo Phật luôn cùng với đồ chúng
mỗi người 125 vị. Cộng có 250 đệ tử của hai anh em cũng theo Ngài tu
luôn. Như vậy cả ba anh em cộng lại là 750 người đi theo Phật, 500 còn
lại là đệ tử của Ngài Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên cùng các vị đệ tử
khác, nên trong kinh thường nói: Thiên nhị bách ngũ thập nhơn câu (1250
Tỳ kheo đông đủ trong hội thuyết pháp) của Phật. Như vậy là Rồng xuất
hiện lần thứ hai trong kinh Phật.
Bây giờ Rồng xuất hiện lần thứ ba.
Các
Phật tử đã tụng Kinh lâu ngày rồi có nhớ ở phẩm nào không? Chính nó
xuất hiện ở phẩm Đề-bà-đạt-đa. Trong phẩm Đề-bà, Đức Phật phúc chúc cho
các vị đệ tử thuyết pháp và các vị Bồ-tát phát nguyện đem Kinh Pháp Hoa
đi giáo hóa. Ngài Văn Thù cũng phát nguyện trước Đức Phật là sẽ đem Kinh
Pháp Hoa đi giáo hóa các nơi.
Có
một hôm, trong hội chúng Đức Phật nói rằng: Các đệ tử của Ta đem Kinh
đi giáo hóa khắp nơi, Văn-thù-sư-lợi cũng đem Kinh đi giáo hóa ở Long
Cung là chỗ vua Rồng ở, Văn Thù sẽ đến đây ngay hôm nay. Vừa nói xong
thì Bồ-tát Văn Thù từ biển xuất hiện. Trí Tích Bồ-tát hỏi Ngài Văn Thù:
Mấy lâu nay Ngài đi giáo hóa dưới Long Cung có được nhiều người theo
không? Văn Thù trả lời: Thưa Đại sĩ, dạ đông lắm, không kể xiết. Trí
Tích Bồ-tát hỏi Ngài Văn Thù rằng: Ngài dạy cho đệ tử pháp môn gì mà
người ta theo đông như vậy? Ngài nói: Tôi dạy Kinh Pháp Hoa. Trí Tích
Bồ-tát nói: Kinh Pháp Hoa là bộ Kinh thâm diệu, trong khi Ngài giáo hóa
như vậy có thấy ai có căn cơ lanh lợi, ngộ hiểu được pháp tu hành thành
Phật mau chóng không? Ngài Văn Thù nói: Có. Người ấy là ai? Dạ đó là
Long Nữ (là con của Rồng).
Long
Nữ mới 8 tuổi mà đã có căn trí rất lanh lợi, tu hành có thể thành Phật
đạo một cách mau chóng. Nói vừa xong thì Long Nữ hiện lên. Khi Long Nữ
hiện lên thì Ngài Xá-lợi-phất nghi, Ngài nghĩ rằng: Thân người nữ có 5
sự chướng như Đức Phật đã nói: Một là, thân người nữ không được làm Ma
vương; hai là không thể làm được vua Trời Phạm Thiên; ba là không thể
làm vua Trời Đế Thích; bốn là, không được làm Chuyển Luân Thánh Vương;
năm là, không được làm Phật. Thân người nữ có 5 điều chướng ngại như
vậy, nhưng ở đây Long Nữ đã là người nữ, mà lại là thân Rồng, thuộc loài
súc sinh, thì làm sao mà nói thành Phật mau chóng được? Ngài
Xá-lợi-phất nghi lắm. Biết Xá-lợi-phất nghi như vậy nên Long Nữ liền nói
rằng: Thưa Tôn-giả Xá-lợi-phất kính mến, giả sử tôi đem chuỗi ngọc này
cúng dâng lên Đức Thế Tôn, Đức Thế Tôn liền nhận xâu chuỗi ngọc đó, thời
gian đó có mau không? Ngài Xá-lợi-phất trả lời: Rất mau. Long Nữ thưa
lại rằng, tôi nay thành Phật cũng mau chóng như thế. Vừa nói xong thì
chuyển thân Long Nữ biến thành nam nhân và thành Phật ngay trước hội
chúng.
Ở
đây chắc các Phật tử cũng nghe nói thân người nữ có 5 điều chướng đó
nên không thể làm Ma vương (Chúa tể loài Ma), không thể làm được Phạm
thiên vương (làm chúa tể cõi thế gian), không thể làm được Trời Đế Thích
(tức là vị trời làm chủ cõi trời 33), không được làm vua Chuyển Luân
Thánh Vương (tức là một ông vua đem Chánh pháp cai trị muôn dân). Ông
vua đó mỗi lần ra đời thì có bảy thứ báu xuất hiện theo ông, trong các
thứ báu đó có một thứ xe báu, khi nào muốn đi thì chiếc xe ấy hiện đến
và ông cỡi lên xe ấy để chu du thị sát khắp bốn châu thiên hạ, để quan
sát dân tình mà cai trị. Xe ấy đi khắp đông, tây, nam, bắc chỉ trong một
canh giờ mà thôi là về chỗ cũ; và thứ năm là, không được làm Phật.
Chuyển Luân Thánh Vương là ông vua Thế gian, Đế Thích là ông vua cõi
trời Tam thập tam ở Dục giới. Còn Phật là ông vua pháp (Pháp vương).
Thân người nữ có trở ngại là không làm được năm chức vị đó cho nên gọi
là ngũ chướng. Nói như vậy có khác nào nói rằng, trong Phật Pháp không
có sự bình đẳng, trong Phật Pháp cho người nữ thấp hơn người nam hay
sao? Nếu nói người nữ thấp hơn người nam thì tại sao có chỗ Phật dạy
rằng: "Tất cả chúng sanh đều có tánh Phật". Đã có tánh Phật thì bất luận
nam nữ đều có thể thành Phật. Cho đến với loài súc sinh nếu có tánh tự
giác, đều có Phật tánh thì trước sau đều có thể thành Phật được hết.
Tại sao nói thân người nữ có 5 chướng nên không làm được 5 chức vị đó? Chúng ta biết rằng trong nhà Phật, chữ chướng có 3 thứ:
- Phiền não chướng.
- Nghiệp chướng.
- Báo chướng.
Khi
tụng kinh lễ Phật, chúng ta đều có nguyện: Nguyện tiêu tam chướng trừ
phiền não. Phiền não chướng tức là tham, sân, si, tật đố, kiêu mạn, ích
kỷ, ganh tỵ...Tất cả những tật xấu đó gọi chung là phiền não. Những thứ
phiền não nầy làm cho tâm người ta bất an, bị sầu muộn, bị dằn vặt, buồn
bực, lo lắng như lửa đốt, nên gọi là phiền não. Chúng ta muốn tu nhưng
vì các thứ đó nó ngăn ngại nên không tu được. Muốn giải thoát nhưng bị 5
thứ đó làm cho chướng ngại nên không giải thoát được. Muốn được an vui
thì bị các phiền não đó làm ta buồn bực không vui được.
Tự
chúng ta chiêm nghiệm suy nghĩ về chúng ta cũng đủ hiểu. Tôi lấy một ví
dụ: Hằng ngày chúng ta đi tụng kinh rất siêng năng, nhưng hôm đó có
người rao lên rằng: Nếu ai đó đến với tôi đúng 6 giờ sáng tôi sẽ biếu
cho một thỏi vàng. Chắc chắn khi ấy lòng tham nổi dậy nên cũng có người
bỏ tụng kinh, thế là chướng rõ ràng, vì sao? Vì nó ngăn trở con đường tu
giải thoát của mình, đó gọi là phiền não chướng. Mình biết rằng sân si
là một điều không tốt, là một điều tai hại (nhất niệm sân tâm khởi, bát
vạn chướng môn khai, nghĩa là một khi khởi một niệm sân si thì muôn điều
chướng ngại nổi lên). Mặc dầu biết như vậy, nhưng khi một ai nói một
tiếng về mình mà mình không bằng lòng, thì mình sẽ nổi sân liền, không
làm sao mà tu được. Đang đi tụng kinh, giữa đường mà gặp một người nào
đó không quen, quẹt vào làm cho mình bị rách áo thì liền quay trở lại
sừng sộ cãi lộn với họ đã, chứ còn tụng kinh thì thôi để mai, mốt tụng
cũng được. Đó tức là phiền não chướng, vì nó làm chướng ngại con đường
giải thoát, con đường tu tập, làm chướng ngại sự tìm đến cảnh an vui
thanh tịnh của mọi người.
Thứ
hai là nghiệp chướng, tức là cái nghiệp làm chướng ngại con đường tu
tập của mình. Tôi thí dụ: Sáng nay đi tụng kinh Pháp Hoa ở chùa Từ Đàm,
nhưng khi đạp xe qua chợ Bến Ngự thấy có quán cà phê mùi thơm bốc ra hấp
dẫn, thèm quá mình không cưỡng lại được, thôi thì phá lệ ghé qua uống
một cốc đã. Cái nghiệp uống cà phê nó lôi đi theo nghiệp uống cà phê,
nghiệp ham mê bóng đá nó lôi đi theo nghiệp bóng đá, nghiệp ưa đánh lộn
nó lôi theo nghiệp ưa đánh lộn. Bao nhiêu cái nghiệp đó ở nơi chúng sanh
hoặc nhiều hoặc ít đều có hết. Nếu nghiệp đó mình không thắng nổi hắn,
phải đi theo hắn thì đời đời chìm đắm theo nó, chứ không tiến lên con
đường giải thoát, giác ngộ được, nên gọi là nghiệp chướng.
Thứ
ba là báo chướng. Báo chướng nghĩa là sinh ra đã gặp quả báo. Có người
ưa đi tụng kinh quá mà sao bữa nay trong người không khỏe, bị đau bụng,
mai đau chân, mốt nhức đầu, không sao đi tụng kinh được. Họ cũng biết
giáo pháp của Đức Phật dạy quí báu vô cùng, muốn đi nghe quá nhưng bữa
nay hai tai nó ù, không nghe được. Nghe người ta diễn tả rằng: Tượng Đức
Phật rất trang nghiêm, thanh thoát, tự tại, an lạc, họ muốn thấy tượng
Đức Phật, muốn chiêm ngưỡng tượng Đức Phật nhưng vì hai con mắt bị mù
không thấy được nên gọi là báo chướng.
Vậy
khi nói thân người nữ bị năm chướng không làm được 5 chức vị đó là
thuộc về loại chướng nào? Nó thuộc về báo chướng chứ không phải nghiệp
chướng, cũng không phải phiền não chướng. Bởi thân ta có khi không luận
nam hay nữ, khi đã dứt hết phiền não chướng rồi thì không còn phiền não
nữa. Trong hiện thân dứt hết phiền não, dứt hết nghiệp chướng rồi thì
không còn phiền não và không còn nghiệp chướng nữa, nhưng cái thân báo
chướng nơi mình khi sinh ra đã mang cái thân đó. Trong khi mang nó thì
thân đàn ông khác, thân đàn bà khác. Thân nam giới có nhiều tự tại hơn,
trái lại, thân nữ giới có nhiều cái triền phược hơn, vì bị nhiều triền
phược nên cũng bị nhiều ngăn ngại: Do vậy người nữ không được làm Đế
Thích, không được làm Ma vương, không được làm Chuyển Luân Thánh Vương,
không được làm Phạm Thiên Vương, và không được làm Phật, vì đó là báo
chướng chứ không phải nghiệp chướng, không phải phiền não chướng.
Bởi
vì phiền não chướng cũng y như nam giới, nghiệp chướng cũng y như nam
giới không khác gì hết, nhưng vì dư báo trong hiện tại làm chướng ngại,
nên không thể làm chủ năm chức vị đó mà thôi. Năm chướng này là năm
chướng thuộc về báo chướng chứ không phải phiền não hay nghiệp chướng gì
hết. Báo chướng là cái dư báo do mình tạo nghiệp đời trước, nên ngày
hôm nay phải chịu báo thân như vậy, cho nên có những vị đắc đạo trong
hiện thân, Đức Phật cũng thành đạo trong khi hiện thân chứ không phải
Ngài thành đạo lúc nhắm mắt, thế nhưng cái dư báo của sắc thân đó, Ngài
cũng phải chịu. Ví như đau ốm, rét lạnh, nhức đầu sổ mũi...là thuộc về
báo chướng.
Các
vị A la hán cũng vậy, trong hiện tại chứng quả A la hán thì chính các
vị đó đã dứt hết phiền não chướng, nghiệp chướng nhưng cũng còn mắc báo
chướng nên phải chịu sự triền phược của cái nghiệp báo đó. Như trong
kinh có nêu câu chuyện: Có một vị đã chứng A la hán rồi nhưng khi đi
khất thực không có ai cúng dường.
Đó
là ngài Losaka, vì lẽ trong kiếp trứơc bà mẹ của Ngài rất mộ đạo, hay
cúng dường bố thí cho các bậc tu hành, trái lại, ngài thì hay ghét mấy
vị đi khất thực. Thấy ngài đâu là ngài ối đổ nấy, vì vậy nên không có ai
dám đến nhà của ngài để khất thực, mặc dầu pháp khất thực của các nhà
sư thì không phân biệt nhà nào hết, nhà nào cũng phải đi ngang qua cả.
Nhưng bữa đó, có một vị Bích Chi Phật đến khất thực nơi nhà của ngài,
khi ấy ngài không có ở nhà. Bà mẹ đem cúng dường Bích Chi Phật những
thực phẩm tốt nhất. Khi vị Bích Chi Phật vừa đi ra khỏi thì gặp Losaka
trở về, thấy vậy liền tra hỏi vị Bích Chi Phật rằng: Ông vào xin trong
nhà tôi có gì không? Ngài trả lời: Có. Ông biểu ngài đưa bình bát cho
ông coi và thấy trong bình bát có thức ăn. Ông giành lấy bình bát của
ngài và đổ xuống đất và lấy chân chà cho nát. Vì tạo nghiệp không tốt
đối với vị Bích Chi Phật nên kiếp sau, ngài bị luân hồi và sanh vào
trong nhà người chài lưới ở miền biển rất nghèo. Làng này lâu nay làm ăn
cũng khá, bữa được bữa mất nhưng không bao giờ đói. Nhưng từ khi sanh
ngài ra thì nhà ấy và làng buôn luôn luôn bị mất mùa, đói kém. Họ bèn
điều tra xem xét và được biết kể từ khi ngài có mặt thì làm thiệt hại cả
làng, nhưng chưa ai dám nói ra.
Một
hôm để xác minh có phải ngài là người làm cho cả làng bị thiệt hại như
vậy không, họ bèn chia làng ấy ra làm hai thôn: Thôn trên và thôn dưới.
Thôn không có ngài Losaka ở thì làm ăn phát đạt, trái lại, thôn có ngài
Losaka sinh và đang ở đó thì luôn luôn mất mùa, đói kém. Khi đã biết
chính ngài là người làm cho cả thôn bị đói kém, họ liền đuổi hai mẹ con
ngài đi. Cả hai mẹ con dắt nhau đi xin, nhưng tới đâu cũng không ai cho
gì hết. Khi bà mẹ để ngài ở nhà đi xin một mình thì họ cho rất nhiều,
còn nếu mang ngài đi theo thì không ai cho cả. Bà mẹ cảm thấy chán nản
và định bỏ rơi con. May thay một hôm gặp ngài Xá-lợi-phất, ngài nhìn
thấy Losaka mặc dầu mắc quả báo như vậy, nhưng có căn chủng rất tốt nên
ngài nhận đem về nuôi dạy. Ngài dạy cho Losaka học và tu hành, sau đó
không bao lâu thì chứng quả A la hán. Mặc dầu chứng quả A la hán nhưng
đến khi đi khất thực, khất đâu cũng không được. Buổi sáng ngài đi khất
thực thì các thí chủ chưa mở cửa. Ngài đợi gần trưa đi khất thực thì
người ta đã cúng dường cho mấy vị trước rồi, đến khi ngài đi tới thì hết
thức ăn.
Khi
ngài đi chặng giữa cũng có người cúng, nhưng khi ngồi ăn thì quạ xuống
giành mất, cứ như vậy nên ngài phải chịu đói luôn. Thấy vậy ngài
Xá-lợi-phất liền đi khất thực đem về cho ngài ăn. Khi đưa cơm cho ngài
Losaka ăn, ngài vừa bưng bình bát lên thì cơm liền biến mất. Ngài
Xá-lợi-phất phải tự bưng bình bát để Losaka ăn. Ngài tuy chứng A la hán
nhưng vẫn bị quả báo như vậy. Sự việc của ngài Losaka mà tôi vừa kể trên
là bị báo chướng chứ không phải bị nghiệp chướng lại càng không phải bị
phiền não chướng.
Trong
kinh Pháp Hoa nơi Phẩm Đề-bà mà ngài Xá-lợi-phất nghi Long nữ không thể
thành Phật được, vì thân người nữ có 5 chướng ngại nên không thể thành
Phật được, là thuộc về báo chướng chứ không phải nghiệp hoặc phiền não
chướng. Qua đó chúng ta mới thấy tính cách bình đẳng của Phật, Ngài nói:
"Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh như nhau, không có gì sai khác".
Hôm
nay nhân chuyện năm Rồng, tôi kể chuyện Rồng như vậy để các Phật tử rõ
và chúng ta cũng nên biết rằng, học Phật phải biết nghiệp chướng là gì,
phiền não chướng là gì, báo chướng là gì, để chúng ta sách tấn tu tập,
hầu dứt trừ ba thứ chướng đó để được tự tại an vui và giải thoát.
Trích "Phật Ở Trong Lòng" của HT Thích Thiện Siêu