Mùa Đông năm ấy, tháng chín bầu trời bỗng
sập tối, tha thiết tìm lại bóng dáng người xưa. Mọi người tưởng rằng,
Đông là trong bốn mùa tuyệt vọng, dường như với tôi là khác, nó vẫn băn
khoăn tiếp nối. Bất cứ tái sinh ở cảnh giới nào, đều là cách giới của sự
sống, bất tuyệt mầu nhiệm. Còn lại một mùa đông mãi trong kí ức của
tôi.
…Sáng mở cửu, uống trà, nhìn mây và ngắm nắng từ vô tận.
Những nhành cây lặng lẽ trong tiếng thời gian quá khứ. Mặt hồ tĩnh mặc
như một bức họa vô tâm, trên màng nước còn sót lại chiếc lá và đám rong
mây của mùa thu qua. Con đường lạ lẫm mà chưa một lần bước đến nay đã
trở thành huyền thoại. Nơi vô thỉ ấy, ta chỉ biết có lời kinh hóa ngọc,
lời pháp tỉnh lòng mê và vô số điều uyên thâm đắc đạo của những bậc
thượng thủ.
“Ta đã trở về với chính ta,
Ta cùng chư Phật chung một nhà,
Ta đi phiêu bạt trong hoàng vũ,
Chẳng phải nơi nào chẳng phải ta”.
Thơ.Đồng Nhãn.
Cái thấy mà không bám víu, cái biết hòa điệu như một cung bậc thăng
trầm, đi nhưng không phải là đi, ở cũng chẳng xá gì chỉ nhắm mắt thiếp
ngủ hai ba lúc rồi thức dậy. Chúng ta phải nhìn thấu được sự hiện hữu
của “ Một nhà” là đến lúc ta biết an trú vào đối tượng quán chiếu, thân
hành nơi thân hành, tâm trong tâm, ý xúc tác mà không chạm, miệng giữ
yên không động thì có thể chúng ta cứ tiếp tục nhiếp phục tóm thâu mọi
nắm bắt kia. Dường như mùa đông cũng thế, chúng cũng chịu buông bỏ cái
lớp vỏ bên ngoài để vững an từ cái nội tại. Có đôi khi chúng còn thừa
hưởng sự tụ khí và đón nhận cái chân lý ‘ Là Không’ bao trùm cõi nhân
địa, sống trong tỉnh gíac trở về với tâm:
« Ta lại tìm ta chốn bụi hồng,
Cho hồn ta nhập với núi sông,
ở đây nương tựa vầng mây khói,
vạn nẻo luân hồi vạn nẻo không. »
Như một chiếc bình cổ, qua sự biến đổi của hiện thể, chúng ta dễ
dàng thấy vết nứt trên thân bình, trên vành miệng bình, chúng ta mãi mê
lau chùi chiếc bình cho bóng loán mà quên đi một tác động nhỏ đến từ
bên ngoài, làm hoại dần sự trong sáng vốn có của nó. Từng tơ bụi có thể
đọng lại mà ta không hề hay biết, nhưng chúng cũng có khả năng bảo tồn
dín chặt vào khe hở của chiếc bình muôn tuổi. Do ta không biết đó
thôi, Mùa Đông lắm lúc cũng là sự chuyển dần của một bước ngoặc mới
trong ý thức, trong căn cơ và trong mỗi hơi thở bất diệt vô sanh. Ngày
hôm qua chưa chắc là của ngày hôm qua, sáng nay cũng vậy, chúng tiềm
tàng ở mọi thế giới khác nhau, xóa tan đi những đám mây hư vô và bước
chân ta luôn có mặt với thực tại để sống và để một lần nữa hòa mình vào
dòng chảy vô dư y niết bàn. Như một hành giả, gánh tọa cụ và nước lên
núi để tìm hang động ẩn thất, đang trên đường đi tới thì bỗng cành cây
khô vướn lại, choáng cả lối mòn lên núi, bằng mọi cách vị Thiền Sư ấy,
quăn các thứ còn lại xuống và cởi chiếc áo ra móc vào thân cây gần đó,
để làm dấu. Từ từ Vị ấy nhận ra rằng cái mà hồi nảy giờ ta lặn lội đi
tìm kiếm là một cành cây khô đã mục nát lâu ngày chỉ còn sót lại nhăm
ba nhánh bên đường, làm cản trở chuyến lên ẩn thất của tôi. Một trạng
thái chân tục đế, hữu dư y niết bàn mà sở dĩ ta vội vàng được một nhà
học giả gọi là “ Trạng thái tâm vắng lặng mà thường biết là đương thể
của Niết bàn. Thế nên, Niết bàn chính là bản tâm thanh tịnh xưa nay.
Nhờ cái đương thể của Niết bàn mà thế gian sinh diệt mới có chỗ dựa tối
hậu. Niết bàn hay sinh tử rốt cùng cũng chỉ là cái tâm của chúng ta,
vì sinh tử (mê) và Niết bàn (giác) chỉ là biểu tượng hai mặt của tâm.
Có khi người ta hiểu Niết bàn là một cảnh giới, nhưng là một cảnh giới
vi diệu mà ở đấy tất cả dục vọng vô minh của cá thể không còn tồn tại
nữa. Vì thế, những người đệ tử Phật muốn biết Niết bàn là gì, chỉ có
thể kinh nghiệm một cách trực tiếp vào nguồn tâm của chính mình. Và khi
nào mà ý niệm về ta và của ta không còn năng lực hoạt động trong tâm,
thì tự nhiên hành giả sẽ kinh nghiệm được cái một, cái thuần nhất bất
tạp của muôn loài vạn vật. Có thể nói, Niết bàn là chân lý tuyệt đối,
nó vượt ngoài nhị nguyên và tương đối. Người đạt được Niết bàn là người
phục vụ kẻ khác một cách trong sạch nhất, vì họ không còn nghĩ về
mình, họ đã thoát khỏi mọi sai lầm về Ngã và lòng khát khao muốn trở
thành. Trong Niết bàn, không còn có thái độ thiên chấp và bưng bít.
Niềm vui chân thật chỉ xuất hiện khi nào ta thoát khỏi mọi thành kiến
ngã chấp và ý niệm có sẵn. Những người có lối sống phàm thường, đam mê
trong dục lạc thật khó mà biết được sự an lạc nội tâm của các nhà tu
hành đắc lực. Nhất là thời hiện đại này, nhiều người đã xem nhẹ truyền
thống tâm linh và đạo đức, lại xem trọng tri thức và vật chất. Và chính
đó là mầm mống thác loạn trong đời sống nội tâm và đời sống xã hội loài
người hôm nay” và rồi sẽ “Cái gì có nương tựa, cái ấy có giao động;
cái gì không nương tựa, cái ấy không giao động. Không có giao động thời
có khinh an, có khinh an thời không có thiên về, không có thiên về
thời không có đến và đi, không có đến và đi thời không có diệt và sanh,
không có diệt và sanh thời không có đời này, không có đời sau, không
có đời giữa. Đây là sự đoạn tận khổ đau”.
Người Thiền sư suốt đêm qua luôn gát tay suy tư về điều mà Ông
chứng kiến buổi hôm qua, Ông cho rằng cái mà vừa sắp diễn ra là cái
chưa một lần đến và cái sắp bắt đầu là cái không biết chắc xảy ra. Bởi
vậy mùa đông giúp cho chúng ta biết thêm về sự tương quan tương duyên
của cuộc sống, tưởng chừng ta đơn độc như vị Sư Thiền kia, một mình lên
núi, một mình cởi áo và cũng một mình đoạn trừ các lậu hoặc trước khi
chiếm tới đỉnh núi ẩn thất. chúng ta sẽ tìm ra sự phòng hộ giữa các
chuyển mùa với nhau, đừng ích kỷ tách biệt cái này của ta và cái nay là
của ta. Bị bám víu vào các cảm thọ sum tụ, vui sướng, nóng lạnh thì ta
đang mắc kẹt ở các pháp.
Có một thiền khách hỏi:
Sau khi mùa đông đi qua, để lại gì cho ta?
Sư đáp:
- Hãy nơi sinh tử mà nhận lấy.
“Tất cả pháp hữu vi sinh diệt trong từng sát na. Quá khứ đã trôi
qua, vị lai thì chưa đến, sự tồn tại chân chính chỉ có thể tìm thấy
trong từng sát na hiện tại. Vì thế, Niết bàn chỉ có ở sát na hiện tại,
ngay tại đây và bây giờ. Niết bàn cũng là chỗ tiềm ẩn của thế giới hiện
thực, song song tồn tại với thế gian vô thường, và vô thường chính là
dụng lực của Niết bàn vô vi đó vậy”.*
Thế cho nên thế giới Hoa
Nghiêm luôn hiển hiện ở cùng khắp và đâu có cũng có chân lý tuyệt đối.
Một Chân lý huyền diệu mà ta có thể cảm được, chạm được thì hẳn nhiên
hạnh phúc mà ta bắt gặp được trong từng giây từng phút là chuyện đương
nhiên, chẳng có khó khăn gì lắm đâu, nếu tự thân chúng ta phải biết trãi
nghiệm và buông bỏ bớt mọi cái thấy, cái nghe rác bẩn. Như có một
người chèo thuyền ra biển khơi, lúc gặp gió lớn, sóng dữ, người ấy
chẳng cần dụng công lực chi nhiều mà hãy thả trôi vô sự, chờ đến khi
sóng yên, gió lặng ta tiếp tục lái con thuyền đi mọi hướng vọng tâm của
chúng ta.
“Tùng non lớp lớp giữa nền trời
Đùa reo với gió chừng thảnh thơi
Từng bước ta đi trên lối cỏ
Muôn ngàn giọt nắng dõi theo chơi”.
Mỗi khi sự sống vắng vẽ thì lúc tâm thức biểu hiện qua vô vàn sự
biến chuyển. Nó như muốn ngừng thở và nó như muốn tái sinh và nó như
muốn trở về…và mùa đông cũng vậy, nó luôn là một thứ gì đó rất ư tự
nhiên, nó luôn muốn lột xác, để lại chút gì cho thế gian. “ Tất là cả
một” Một cõi đi về mà thôi.
Kinh Tâm – Thích Pháp Bảo
Thiền Viện ngày 24/09 năm Canh Dần-2010