Hầu hết các tôn giáo dùng cảm xúc như
một năng lực để đạt được
mục tiêu. Cảm xúc là một nguồn cảm
hứng khơi gợi niềm tin và lòng tôn kính giáo lý, và
những cảm xúc, đặc biệt những cảm xúc
tạo niềm tin là một phần thiết yếu
của đa số tôn giáo. Cảm xúc cũng là cái duy trì
niềm tin, lý do đó rất quan trọng nên muốn
bảo đảm thì tình trạng cảm xúc đó phải
được giữ vững. Nói một cách khác, vì niềm
tin rất thiết yếu cho các tôn giáo, cảm xúc luôn
được khuyến khích.
Trong khi niềm tin là một sức mạnh
tuyệt vời trong hầu hết các tôn giáo thì Phật
Giáo lại nhấn mạnh trí tuệ, coi niềm tin
chỉ quan trọng trong những bước đầu.
Dầu vậy niềm tin phải
được sử dụng thận trọng, vì trí
tuệ được coi là nhân tố quan trọng bậc
nhất để đạt mục tiêu của Ðạo
Phật.
Tuy
nhiên, niềm tin vẫn đưọc coi trọng trong giáo
lý Ðạo Phật nhưng trong một vai trò khác với
tầm quan trọng khác. Cũng có những
yếu tố niềm tin trong nghiên cứu khoa học mà
ở đây nó có vai trò quyết định trong sự
tiến bộ về nghiên cứu và điều tra của
khoa học.
Ðể
thấu hiểu niềm tin rõ ràng, việc lý giải thành
nhiều loại rất có lợi. Nói chung,
niềm tin có thể chia thành hai loại chính:
Loại thứ nhất là loại ngăn trở
trí tuệ. Loại này dựa vào kích
động, thâm chí ép buộc, và niềm tin như vậy
hẳn phải là hoàn toàn mù quáng. Cấm
hẳn việc nghi ngờ giáo lý. Chỉ
được phép mù quáng phục tùng. Niềm tin theo loại thứ nhất này không có chỗ
cho trí tuệ phát triển.
Niềm tin của đa số các tôn giáo
đều thuộc loại trên. Phải
có niềm tin và phải phục tùng. Tôn giáo nói sao thì
cứ việc theo không được
hỏi. Nét đặc thù này của tôn giáo gọi là 'tín
điều', thứ chủ thuyết không thể nghi
ngờ được, có đặc điểm là trung thành
triệt để bất chấp lý trí. Nhưng
Phật Giáo là một tôn giáo không bị tín điều.
Loại
niềm tin thứ hai là con đường tới trí
tuệ. Loại này kích thích tính tò mò; khích
lệ khởi sự việc học tập. Trên thế giới này có quá nhiều điều
cần phải biết. Không có niềm tin, chúng ta không
biết phải bắt đầu từ điểm nào,
đường hướng nào phải theo
để học tập, nhưng khi một người có
niềm tin, đề tài hay giáo lý sẽ cho điểm
khởi thủy. Niềm tin thức tỉnh sự chú ý và
khích lệ chúng ta tiến tới đề mục đã
quan tâm. Tin tưởng vào con người, đặc
biệt,sẽ dẫn đến
việc tiếp xúc và học hỏi nơi người
khác. Chẳng hạn có niềm tin vào đoàn thể tăng
già, khích lệ chúng ta tới gần các thầy, học
hỏi nơi các thầy, và thông suốt được
giáo lý.
Ðiển hình cho loại niềm tin này là chuyện
về cuộc đời Ngài Xá Lợi Phất (x).
Ngài lưu ý đến việc học hỏi giáo lý của
Ðức Phật khi nhìn thấy Thầy A
Nhã Kiều Trần Như đi khất thực. Ngài Xá Lợi Phật cảm thấy bị ấn
tượng bởi cách đi đứng của nhà Sư
nói lên đức tính đặc biệt, kiến thức
đặc biệt, tri thức đặc biệt. Muốn tìm hiểu đức tính đặc
biệt ấy là gì, Ngài tiến đến gặp A Nhã
kiều Trần Như và hỏi về giáo lý. Trên đây là một thí dụ về loại
niềm tin thứ hai.
(x)
Ngài Xá Lợi Phật, một trong những đại
đệ tử của Ðức Phật, gặp Thầy A
Nhã Kiều Trần Như đi khất thực, ấn
tượng bởi dáng dấp của vị thầy này nên
đã đến gặp và hỏi về giáo lý. Giáo lý
ngắn gọn mà Ngài nhận được khiến Ngài
không còn ngờ vực gì sự trung thực về giáo lý
của Ðức Phật, và đã trở thành một tỳ
kheo, một nhà sư Phật Giáo.
Cho nên loại niềm tin này, hay cảm hứng là
một ảnh hưởng tích cực, một động
cơ khích lệ cho việc học tập. Niềm
tin này cho chúng ta điểm trọng tâm của việc
học tập. Dù niềm tin này theo
bất cứ hướng nào, nghị lực của chúng
ta vẫn được thúc đẩy thích ứng. Thí
dụ, một khoa học gia có niềm tin rằng giả
thuyết đặc biệt của mình có thể đúng,
sẽ hướng sự tìm tòi của mình theo
chiều huớng đó, không bị xao lãng bởi những
dữ kiện không thích đáng khác.
Hai
loại niềm tin trên đây phải được phân
biệt rõ ràng. Loại niềm tin hoạt
động trong Ðạo Phật là loại dẫn
đến trí tuệ, nói cho đúng là thứ yếu
đối với trí tuệ. Niềm tin
này thấy cả trong Phật Giáo lẫn khoa học.
Loại
niềm tin này gồm ba chức năng quan trọng liên quan
đến trí tuệ là:
1.
Tạo mối quan tâm và động cơ thúc đẩy
để tiến hành học tập.
2. Cung cấp nghị lực cần thiết nhằm theo đuổi việc học tập.
3. Ðưa ra phương hướng, tức là trọng tâm
cho nghị lực ấy.
Ngoài
những chức năng trên, niềm tin được
định hướng đúng cách có một số các
đặc tính được nhận thấy trong hệ
thống tu tập của người Phật Tử.:
Mục tiêu của Phật Giáo là gì? Mục
tiêu của Phật Giáo là giải thoát, siêu việt, hay, nói theo ngôn ngữ đương đại,
sự tự do. Phật Giáo muốn con người
được tự do, vượt
khỏi ô trược và khổ đau.
Làm
sao có thể đạt được sự tự do này?
Tự do đạt được nhờ trí tuệ,
hiểu được chân lý, hay luật thiên nhiên. Chân lý
đó có thể đạt được như nhau dù là
Vị Ðạo Sư hay đệ tử của Ngài và
kiến thức của các đệ tử hoàn toàn
độc lập. Có một lần, Ðức Phật
hỏi Ngài Xá Lợi Phất: "Thầy có tin những gì
ta giảng cho Thầy nghe không?" Xá Lợi Phất
trả lời: "Thưa Vâng, đệ tử nhận
thấy điều đó như vậy" Ðức
Phật hỏi tiếp: "Có phải Thầy nói như
vậy chỉ vì niềm tin nơi ta phải không?" Không, đệ tử trả lời đồng ý
không phải chỉ vì Ngài vào Ðấng Thiêng Liêng, mà chính
bản thân đệ tử thấy đúng là như thế".
Ðây là một nguyên lý nữa trong Phật Giáo.
Ðức Phật không muốn các đệ tử của Ngài
tin Ngài một cách đơn giản hay níu chặt lấy
Ngài. Ngài vạch rõ sự thiếu sót của niềm tin,
thậm chí niềm tin vào người khác vì Ngài muốn con
người phải được hoàn toàn tự do.
Giải thoát, hay tự do, mục tiêu của Phật Giáo
đạt được bằng trí tuệ, bằng
kiến thức hiểu biết sự thật.
Nhưng làm thế nào để trí tuệ phát sinh?
Với những người biết suy nghĩ, những
người mà ta gọi là biết nhận xét khôn ngoan (x),
không cần phải dựa vào niềm tin, nhưng đa
số phải sử dụng ni?m tin làm
bàn đạp hay điểm khởi đầu.
(x)
sự lưu ý có phương pháp, sự
nhận xét khôn ngoan, sự phản chiếu để phê
phán.
Những
điều kiện này ràng buộc giống như mắt
xích trong dây xích. Muốn đạt giải
thoát, cần thiết phải phát triển trí tuệ. Trí tuệ là điều kiện thiết yếu
biến mục tiêu thành hiện thực nhưng lại quay
về tùy thuộc vào niềm tin. Ðiều đó cho
chúng ta ba giai đoạn:
Niềm
tin -- Trí Tuệ -- Giải thoát
Niềm tin là người khởi xướng con
đường đi tới chân lý. Rồi dẫn
đến trí tuệ, và tiếp theo dẫn đến gi?i thoát. Mô hình điều kiện này rõ ràng là
hạn chế bớt niềm tin trong Phật Giáo. Vì
niềm tin liên quan đến cả trí tuệ lẫn
giải thoát nên có hai đặc tính sau:
1.
Niềm tin dẫn đến trí tuệ
2. Niềm tin đi đôi với trí tuệ
dẫn đến giải thoát.
Niềm
tin trong Phật Giáo không cấm đoán hỏi han thắc
mắc hay nghi ngờ, cũng không đòi hỏi phải tin
hay không được thắc mắc . Phật Giáo và khoa học cả hai đều có
niềm tin như vậy; cả hai đều dùng niềm
tin như bàn đạp trên con đường hiểu
biết sự thật. Bây giờ câu
hỏi được nêu lên, loại niềm tin nào là
loại niềm tin dẫn đến trí tuệ?
Trong
bối cảnh thảo luận hôm nay, chúng ta có thể nói
niềm tin dẫn đến trí tuệ là niềm tin vũ
trụ này, hay theo qui luật tự nhiên
vận hành theo định luật bất biến và không
thay đổi. Ðó là niềm tin vào Qui Luật Tự Nhiên,
hay niềm tin Thiên Nhiên có những qui luật mà con
người có thể hiểu được.
Niềm tin đó là sức đẩy dẫn
đến việc tìm chân lý. vì
niềm tin chính nó không thể dẫn thẳng đến
chân lý, nó chỉ ứng dụng cho việc phát triển trí
tuệ sau này. Trong giai đoạn này niềm
tin của Phật Giáo và niềm tin của khoa học coi
như rất tuơng đồng. Cả
hai tin vào qui luật tự nhiên, và cả hai phấn
đấu để biết sự thật của các qui
luật này qua trí tuệ. Tuy nhiên, sự
tương đồng chấm dứt ngay tại đây.
Từ điểm này, niềm tin của Phật Giáo và
niềm tin của khoa học đi theo
con đường khác nhau.
Sự khác biệt
giữa niềm tin trong Phật Giáo và khoa học
Chúng ta đã nói nguồn gốc của tôn giáo và
khoa học là sự nhận thức khó khăn của
đời sống, cái nguy hiểm đe dọa trong
thế giới thiên nhiên. Trong việc nghiên cứu
để đáp ứng với vấn đề, con
người băn khoăn và lo lắng nhìn vào môi
trường thiên nhiên. Hai cảm nghĩ này làm cả hai Phật
Giáo và Khoa Học ham muốn tìm ra con đường thoát
hiểm, và muốn biết sự thật về thiên nhiên.
Từ một nguồn gốc chung, tôn
giáo và khoa học tách ra đi theo đường lối
của mình.
Ngoài phần khác biệt, cả hai đều có
một sự tương đồng quan trọng, đó là
khuynh hướng nhìn ra bên ngoài, như đã nói
trước đây ở Chương Hai. Trên phương diện này, chúng ta thấy khoa
học đặt trọng tâm vào việc nghiên cứu
hiện tượng tự nhiên bên ngoài. Khoa
học không bao gồm nhân loại trong khung cảnh vũ
trụ. Nói một cách khác, khoa học
không coi vũ trụ bao gồm cả nhân loại, và không
nhìn nhân loại có tính cách bao trùm tất cả vũ
trụ.
Nhìn
thiên nhiên cách đó, Khoa Học chỉ có một đối
tượng về niềm tin, đó là vũ trụ
vật chất- niềm tin là vũ trụ đặt ra
luật. Nói tóm lại chúng ta có thể gọi
đó là 'niềm tin vào thiên nhiên'.
Nhưng
mục tiêu của Phật Giáo là giải quyết vấn
đề khổ đau cho nhân loại, phát xuất từ
những điều kiện bên trong cũng như bên ngoài,
nhấn mạnh vào thế giới hành vi
của con người. Ðồng thời,
Phật Giáo thấy tiến trình đó là tiến trình
tự nhiên. Vì lý do đó, Phật Giáo giống như
khoa học, đặt niềm tin vào thiên nhiên, nhưng
niềm tin này cũng gồm cả con người, có
nghĩa là con người là một phần của thiên
nhiên và cũng bao gồm tất cả thiên nhiên nơi con người,
trong đó con người bị chi phối bởi luật
thiên nhiên.
Niềm
tin của khoa học chỉ có một đối
tượng, và niềm tin của Phật Giáo có hai
đối tượng là:
1.
Thiên Nhiên
2. Nhân Loại
Trong
một khía cạnh, hai loại niềm tin này là một, cùng
là một thứ, vì cả hai đều tin vào thiên nhiên,
loại thứ nhất thật rõ ràng. Nhưng
loại này không bao gồm toàn bộ khung cảnh, chỉ
bao gồm môi trường bên ngoài. Trong Phật Giáo,
nhân loại được coi như một phần
của thiên nhiên. Các bộ phận cơ thể con
người cũng thiên nhiên như môi trường bên
ngoài.
Hơn
thế nữa, con người có một tính chất khác
biệt hẳn với những biểu hiện bên ngoài của
thiên nhiên và cũng phân biệt nhân loại khác với
thế giới chung quanh mình. Ðó là
đặc tính riêng biệt của con người. Chúng ta có thể nói là "đặc tính của
loài người ". Tính chất
đặc biệt này là tinh thần của nhân loại,
những giá trị - tiêu chuẩn đạo đức.
Trong
Phật Giáo chúng ta tin rằng đặc tính trừu
tượng của con người cũng chỉ là
một hiện tưọng tự nhiên, cũng phải
chịu ảnh hưởng của luật nhân quả
tự nhiên, và cũng nằm trong chân lý thiên nhiên. Ðể biết và hiểu rõ tự nhiên, phải
thông suốt tự nhiên cả hai mặt tinh thần
lẫn vật chất.
Nên nhớ rằng muốn biết và hiểu rõ
tự nhiên, con người phải hiểu những
điều họ đang nghiên cứu. Những
đức tính tinh thần ấy như niềm tin, sự
khao khát muốn biết, là những đặc tính trừu
tượng, những điều mà chúng tôi gọi là 'giá
trị'. Chúng đi vào địa hạt trừu
tượng của con người, và với cương
vị như thế, chúng nằm trong lãnh vực nghiên
cứu và học hỏi của chúng ta.
Hơn nữa, ở mức độ tột cùng
đạt được chân lý cũng là đạt
được lòng thiện cao nhất. Cuối cùng,
chân lý và đời sống tốt đẹp nhất, hay
chân lý tối thượng và tâm thiện tối
thượng cuối cùng chỉ là một, cùng như nhau.
Nếu những đặc tính của con người không
được nghiên cứu, không có kiến thức hay
sự hiểu biết nào về thiên nhiên, chân lý sẽ
bị bóp méo và không đầy đủ. Ðiều
này sẽ không có khả năng dẫn đến sự
hiểu biết thấu triệt sự thật chân lý.
Mặc dù Khoa Học tin tưởng vào thiên nhiên,
cố gắng tìm hiểu sự thật về thiên nhiên
nhưng lại không nhìn vào thiên nhiên trong tính toàn thể
của nó. Khoa Học không lưu ý đến giá
trị con người và kết quả là quan điểm
không được đầy đủ và sai lầm
về thiên nhiên. Sự nghiên cứu kiến
thức của Khoa Học không đầy đủ, không
đạt mức toàn hảo, vì đã quên lãng phần thiên
nhiên trong con người.
Ðiều đáng chú ý là niềm tin của Khoa
Học, giống như Phật Giáo, cũng có ý kiến
đề nghị chia thành hai hướng. Ðó là niềm tin vào qui luật tự nhiên, thứ
hai là tin vào khả năng thông minh của con người.
Chúng ta hãy thử nhìn vào niềm tin của Khoa Học, nói
cho đúng niềm tin này đoan quyết thiên nhiên có
những định luật không thay đổi, với trí
thông minh con người có thể tìm thấy sự thật
trong thiên nhiên.
Niềm
tin của Khoa Học có thể chia thành hai phương
diện, và có hai đối tượng, giống như
niềm tin của Phật Giáo. Trước
nhất là niềm tin vào định luật thiên nhiên, sau là
tin vào khả năng trí thông minh con người có thể
hiểu được những qui luật ấy hay
đơn giản là tin vào tiềm năng con người.
Tuy nhiên phương diện thứ hai không
thấy được nói rõ trong Khoa Học mà chỉ là
một sự thừa nhận. Khoa
Học không đề cập đến niềm tin về
phương diện thứ hai, quan tâm rất ít đến
việc phát triển tiềm lực của con
người. Khoa Học chỉ tập
trung vào việc phụng sự niềm tin ở
phương diện thứ nhất.
Ở
phương diện này, Khoa Học khác biệt với
Phật Giáo, Phật Giáo tin con người là quan trọng
nhất, triển khai vấn đề này vào các hình
thức tu tập có hệ thống trong phần lớn giáo
lý Phật Giáo. Qua toàn bộ giáo lý, niềm tin lúc nào cũng
liên hệ giữa ba điểm. Ðó là, sự vững tin vào
tiềm năng của con người có thể phát
triển trí tuệ và hiểu rõ sự thật về các qui
luật tự nhiên, niềm tin này được hỗ
trợ bởi sự tin chắc đã ăn sâu là thiên nhiên
vận hành theo qui luật, và có sự tin chắc rằng
nhận thức được qui luật tự nhiên
ấy làm cho con người có thể hiểu biết
được điều thiện cao nhất tức
sự giải thoát khỏi khổ đau.
Loại
niềm tin đó tạo thành sự khác biệt rõ ràng
giữa Phật Giáo và Khoa Học. Trong Phật Giáo việc
tìm chân lý song song với sự tu tập để thực
hành và biến tiềm năng con người thành hiện
thực. Ðiều này sẽ là đúng nếu
sử dụng kiến thức có được từ
việc nghiên cứu qui luật tự nhiên để
phục vụ ảnh hưởng phá hoại của tham,
sân và si thì khả năng sử dụng kiến thức
bị giảm thiểu. Kiến thức
đạt được sẽ hữu dụng trong tinh
thần xây dựng.
Về
phần Khoa Học, niềm tin lệch lạc về qui
luật tự nhiên chính là nguyên nhân dẫn đến
một cu?c tìm kiếm kiến thức
không có mục tiêu và vô kỷ luật. Không có
sự phát triển nào của loài người và cũng
không có sự bảo đảm nào rằng kiến thức
đạt được sẽ được sử
dụng chỉ đem lợi ích cho nhân loại. Khoa
Học nghiên cứu các chân lý tự nhiên đã không giúp
đỡ được ai, ngay cả những Khoa Học
Gia, mãn nguyện, giải thoát khổ đau, làm dịu
căng thẳng tinh thần, làm cho tâm đựợc an tịnh
và sáng suốt hơn. Ðồng thời Khoa Học mở
rộng con đường cho những giá trị bất
thiện hướng việc phát triển khoa học
đến tham sân si. Thí dụ trong thế
kỷ vừa qua những giá trị bất thiện ấy
là dục vọng chiếm đoạt thiên nhiên và chủ
nghĩa vật chất gây ra sự bóc lột và phá hoại
môi sinh. Nếu cứ phát triển khoa học theo khuynh hướng đó, sẽ không còn
biện pháp cứu chữa.
Phải nhấn mạnh loài người là sinh
vật thông minh, hay thẳng thắn hơn là những chúng
sinh có chủ tâm. Họ là những chúng sinh tạo nghiệp,
và tất cả các loại nghiệp đều do ý
muốn làm ra. Vì lý do đó, con người có ý thức
về các giá trị - tiêu chuẩn đạo đức.
Căn cứ vào chỗ họ có niềm tin vào qui luật
tự nhiên và sự ham thích muốn biết các qui luật
ấy, họ phải biết các giá trị, có ý thức hay
không có ý thức. Ðặc tính này sẽ
quyết định cách thức và phương
hướng và phương pháp để tìm sự thật
- chân lý, cũng như bối cảnh và đường
lối để thấy được sự thật -
chân lý.
Nếu
ý thức về các giá trị của loài người, không
xâm phạm vào đức tính hòa hợp căn bản ở
trong tâm, nói một cách khác, nhân loại không phát triển
điều thiện tối thượng song song với
việc tìm kiếm chân lý tự nhiên, sự tìm kiếm không
thể hoàn toàn thành công (vì không lưư ý đến khía
cạnh khác của sự thật), vì bị tràn ngập
bởi những giá trị thấp kém, và không thể
kiểm soát nổi, dễ bị sai huớng. Những giá trị thấp kém ảnh hưỏng
đến việc tìm kiếm kiến thức, bóp méo
sự thật đã được khám phá.
Nói
một cách đơn giản, kiến thức của khoa
học gia không tách rời các giá trị. Một
thí dụ dễ hiểu về một trong những giá
trị thấp kém là sự thích thú nấp đằng sau
việc tìm kiếm kiến thức cùng với những khám
phá. Dù là kiểu tìm kiếm kiến thức thuần
túy, có giá trị tốt đẹp hơn, nếu phân tách
sâu xa, cũng có những giá trị ẩn dấu bên trong
như sự ham thích muốn thỏa mãn một số nhu
cầu cá nhân, thâm chí cảm giác thích thú, ngay trong
người nghiên cứu.
Tôi
muốn tóm tắt tại điểm này về hai mức
độ giá trị, giá trị cao nhất cùng với
những giá trị trung gian có thể cùng tồn tai. Giá trị cao nhất là chân
lý phải đạt cho được, không phải là
loại mà nhân loại tạo lập trong tâm trí. Ngay từ lúc đầu các nhà khoa học đã có
niềm tin vào thiên nhiên. Sự tin chắc này đã có
một giá trị ngay trong lòng dạ họ từ lúc
bắt đầu, nhưng niềm tin này phải mở
rộng gồm cả thiên nhiên và nhân loại, đòi
hỏi phải tin vào điều thiện tối
thuợng, đơn giản bằng cách ghi nhớ rằng
các qui luật tự nhiên gắn liền với
điều thiện tối thượng.
Khi có một giá trị đúng về niềm tin,
giá trị phụ thuộc sẽ phát sinh; nghĩa là
những giá trị ấy sẽ được tăng
cường bởi sự khích lệ có chủ tâm ở
ngay trong chính nó. Do đó có thể ngăn chặn giá
trị đi lạc vào các khu vực bất thiện,
nghĩa là không bị các giá trị thấp kém xâm chiếm.
Niềm
tin là giá trị căn bản của chúng ta, tạo ra các
giá trị phụ thuộc, đặc biệt là về hoài
bão muốn biết. Từ niềm tin vào chân
lý tự nhiên phát sinh lòng khao khát muốn biết chân lý
tự nhiên, hay sự thật của mọi sự vật.
Hoài bão như vậy rất quan trọng cho
cả Khoa Học lẫn Phật Giáo.
Từ
niềm tin vào sự hiện hữu của điều
thiện tối thượng và tiềm năng con
người đã nảy sinh lòng mong muốn thoát khỏi
khổ đau, vượt qua các khó khăn và theo
đưổi sự phát triển cá nhân.
Loại khát vọng đầu tiên là lòng ham thích
muốn biết chân lý tự nhiên. Loại
khát vọng thứ hai là lòng ham được giải thoát
khỏi khổ đau. Khi hai khát vọng này hợp
nhất, lòng ham thích kiến thức được xác
định và định hướng rõ ràng hơn Nó
trở thành sự ham thích muốn biết chân lý tự nhiên
để giải quyết những trở ngại khó
khăn và hưóng dẫn con người đến
giải thoát. Ðó là sự viên mãn của
Phật Giáo. Khi hai loại khát vọng ấy hợp
nhất, chúng ta có một chu trình
được hoàn thành, cân đối, đầy
đủ toàn vẹn. Có một ranh giới rõ ràng cho khát
vọng về kiến thức được sử
dụng cho mục đích rõ rệt là tạo ra chất
lượng cuộc sống cho đời. Nói tóm lại,
khát vọng kiến thức của chúng ta liên quan thực
sự đến con người, vạch ra con
đuờng mà kiến thức sẽ được
sử dụng.
Với
Khoa Học, nguyên thủy chỉ là cái khát vọng về
kiến thức. Khi khát vọng về kiến thức không
có mục tiêu và không được định
hướng thì kết quả là sự thâu thập bừa
bãi các dữ kiện, cố gắng tìm hiểu sự
thật ẩn tàng đằng sau thiên nhiên bằng cách tìm
kiếm càng ngày càng hướng ra bên ngoài, một sự
thật vì lợi ích của riêng mình. Trong khi sự nghiên
cứu khoa học để tìm ra chân lý không có phương
hướng thì con người lại bị lôi cuốn
bởi giá trị. Vì khát vọng về kiến thức
không được minh định rõ ràng, nó mở rộng
cho các khát vọng khác, tức các giá trị thấp kém
để lấp đầy vào chỗ trống. Tôi đã đề cập tới một số
mục tiêu xa vời, như khát vọng chinh phục thiên
nhiên, và sau đó, sự ham muốn sản xuất nhiều
của cải vật chất. Hai loại khát vọng
này tạo thành một loại chu trình
khác biệt.
Tôi
muốn nhắc lại ý nghĩa của chu
trình trên; đó là khát vọng muốn biết những
sự thật- chân lý tự nhiên để khai thác nhằm
sản xuất của cải vật chất. Chu trình là
nguyên nhân của vô số các khó khăn trong hiện tại:
tinh thần, xã hội, và đặc biệt như chúng ta
hiện thấy vấn đề môi trường.
Ðó
là vì tư tưởng của thời đại kỹ
nghệ đã lợi dụng kẽ hở khoa học,
một khát vọng mơ hồ không xác định rõ ràng
về kiến thức, đó là hành động của con
người được thực hiện bất kể
đến nhân loại. Hiện tại, chúng ta đang
nếm mùi hậu quả tai hại
của kẽ hở đó: những vấn đề
của môi trường, và ở đâu đó phát sinh từ
niềm tin là con người chế ngự được
thiên nhiên rồi bám chặt chủ nghĩa vật chất.
Tư
tưởng trên gây ra khuynh hướng thái quá trong việc
làm của con người. Không có ranh giới
ấn định trong việc tìm kiếm hạnh phúc.
Việc làm tìm kiếm hạnh phúc là vô
tận, sự phá hủy thiên nhiên cũng vô tận. Những khó khăn nhất định phát sinh.
Ðó là chỗ rẽ của Phật Giáo và Khoa
Học.
Nếu lý giải xa hơn, chúng ta sẽ thấy
kẽ hở mà khoa học không hướng tới vì chỉ
chú trọng vào thế giới vật chất bên ngoài.
Khoa Học không nghiên cứu kiến thức thuộc
phạm vi cá nhân con người.
Khoa
Học không chú ý đến, thực ra là không hiểu
bản chất tự nhiên con người, và kết
quả Khoa Học đã trở thành công cụ cho kỹ
nghệ mà những bước tiến ích kỷ của nó
đã xâm hại môi trường tư nhiên. Không hiểu
biết bản chất tự nhiên của con người
là không hiểu biết thực tế rằng có làm cho
năm giác quan thỏa mãn cũng không làm cho nhân loại
hạnh phúc và mãn nguyện. Tham dục vô
đáy, nên sự tìm kiếm của cải vật chất
cũng vô tận. Nhiều của
cải vật chất đạt được qua
việc khai thác thiên nhiên đưa đến sự thao
túng thiên nhiên vô hạn độ và không có sự kiểm
soát. Cuối cùng, thiên nhiên sẽ không
thể thỏa mãn được tham dục của con
người. Cả đến khi đã
phá hủy hoàn toàn thiên nhiên, cũng không thể thỏa mãn
hết tham dục của con người. Phải nói
chính xác hơn là sự phá hoại thiên nhiên tự nó sẽ
làm con người khốn khổ hơn là hạnh phúc.
Con người hay cái
tôi là trung tâm
Tôi
vừa đề cập đến một số
điểm căn bản chung trong
Phật giáo và Khoa Học, cả lãnh vực niềm tin
lẫn khát vọng kiến thức. Bây
giờ tôi muốn nói đến đối tượng
của niềm tin và khát vọng kiến thức.
Ðối tượng đó là sự thật hay còn gọi là
chân lý. Khát vọng và niềm tin của chúng ta bắt
nguồn từ gốc rễ sự ham thích sự thật
và kiến thức. Khi tiến tới được
phần cốt lõi của vấn đề, đó là
kiến thức hay chân lý, khát vọng của chúng ta
thỏa mãn. Ðiều này có nghĩa là nhân
loại phải hiểu chân lý của các qui luật tự
nhiên.
Tôi
muốn nhấn mạnh một lần nữa là trong
Phật Giáo mục tiêu của chúng ta là sử dụng
kiến thức về chân lý để nâng cao đời
sống con người, và giải quyết khó khăn,
hầu đạt được một cuộc sống
hoàn toàn tự do. Mặt khác, mục đích
của Khoa Học là sử dụng kiến thức
để chinh phục thiên nhiên hầu sản xuất
nhiều của cải vật chất. Ðiều này có
lẽ hết sức rõ ràng trong lời tuyên bố của
René Descartes, một học giả nổi tiếng có
địa vị quan trọng nói về việc phát
triển khoa học và triết lý Tây Phương. ông
viết mục tiêu của khoa học là một phần
trong việc đấu tranh: "làm cho chúng ta thành chủ
nhân ông và sở hữu chủ thiên nhiên".
Có mục tiêu khác thì đối tượng
của kiến thức cũng phải khác. Ðối tượng kiến thức trong Phật
Giáo là gì? Ðối tượng chính mà chúng tôi nghiên
cứu là bản chất con người. Con người là
đối tượng của kiến th?c,
và từ đó, sự nghiên cứu của chúng tôi trải
rộng bao gồm mọi sự vật bên ngoài. Nhân loại lúc nào cũng là đối
tượng, là trung tâm điểm để từ đó
chúng tôi nghiên cứu chân lý của thiên nhiên.
Trong
Khoa Học, mặt khác, đối tượng của
sự nghiên cứu là môi trường vật chất bên
ngoài. Ngay khi Khoa Học nhìn vào con người cũng
chỉ coi con người như một tổ chức
vật chất khác trong phạm vi vũ
trụ vật chất. Như vậy, Khoa
Học không nghiên cứu về đời sống.
Khoa Học nghiên cứu đời sống con người,
nhưng chỉ có mục đích sinh học, không nghiên
cứu về 'con người' hay 'tính người'.
Lãnh
vực nghiên cứu về kiến thức của Phật
Giáo là con người, trong khi lãnh vực của Khoa Học
là thế giới bên ngoài. Lấy điểm này làm căn
bản, chúng ta hãy nhìn vào những lãnh vực thiên nhiên mà Khoa
Học nghiên cứu và Phật Giáo tìm hiểu.
Phật
Giáo tin tưởng con người là sự tiến hóa
tối cao của thiên nhiên.Vì lý do này, nhân loại là hình
ảnh bao trùm đầy đủ chân lý trong chính con
người, tức là cơ thể con người
chứa đựng thiên nhiên cả bình diện tinh thần
lẫn vật chất. Trên bình diện
vật chất chúng ta có cơ thể, tạo thành bởi
các yếu tố (đất, nước, gió, lửa) liên
hệ đến thế giới vật chất bên ngoài.
Tuy nhiên, thế giới vật chất không bao gồm giá
trị, hay tâm thức. Vì thế khi nghiên cứu con
người, ta có thể biết được sự
thật về tất cả mọi khía cạnh của chân
lý tự nhiên gồm cả mặt nổi vật chất
lẫn mặt chìm trừu tượng.
Khoa Học nghiên cứu thiên nhiên chỉ trên bình
diện vật chất, trên thế giới vật chất
và năng lượng, không chú ý và cũng không công nhận
nhân tố tâm trí, ý thức nghĩa là tinh thần. Khoa Học nghiên cứu từ bên ngoài vào. Tiến tới cơ thể con người, khoa
học chỉ nghiên cứu "đời sống" mà
không nghiên cứu con người. Khoa Học chỉ
biết những sự việc thực tế của
thế giới vật chất mà không biết bản
chất con người hay bản tính của con
người.
Từ
trước tôi chỉ nói đến những nguyên tắc
căn bản. Giờ đây, xin có một số nhận
xét chung:
Vừa rồi, tôi nói Phật Giáo đặt nhân
loại vào trung tâm điểm, loài người là trung tâm.
Mục đích rõ rệt này là để hiểu rõ và phát
triển con người. Khoa Học, mặt khác, chỉ chú
trọng đến thế giới bên ngoài.
Khoa Học chỉ tìm hiểu sự thật
của các vấn đề bên ngoài con người.
Sau
nhiều năm, Khoa Học đưa ý đồ chinh
phục thiên nhiên vào phương châm hành động của
nó, một lần nữa Khoa Học đặt để
con người vào vị trí trung tâm, nhưng trong một
đường lối khác hẳn Phật Giáo. Phật Giáo
cho con người là trung tâm trong ý nghĩa xác nhận trách
nhiệm của mình. Phật Giáo nhấn mạnh bổn
phận của con người đối với thiên nhiên.
Phật Giáo đặt con người vào trung tâm vì con
người phải tự mình phát triển, tìm cách
vượt qua các khó khăn. Ðó là cái thực sự lợi
ích khiến cho con người đạt giải thoát,
điều thiện tối thượng và thoát khỏi
khổ đau.
Khoa Học đưa quan điểm ham muốn
chinh phục thiên nhiên vào khát vọng của nó, cũng
lại đặt con người vào trung tâm nhưng
chỉ để khai thác thiên nhiên. Con người nói
"Tôi muốn cái này", từ điểm này con
người tiến hành thao túng thiên nhiên để đáp
ứng cho lòng tham dục của mình. Nói một cách
đơn giản, Khoa Học đặt con nguời vào
trung tâm với mục đích thỏa mãn tính vị kỷ
của mình.
Trong mối tương quan với đối
tượng nghiên cứu, Phật Giáo đặt con
người vào trung tâm. Con người trở thành
sự thật phải được nghiên cứu hầu
có thể mở mang hữu hiệu tiềm năng sẵn
có. Riêng Khoa Học, ngay lúc bắt đầu, cũng là
để tìm hiểu sự thật, nhưng hướng
sự quan tâm chỉ vào thế giới vật chất.
Rồi Khoa Học đặt con người vào trung tâm
như một tác nhân sử dụng những vật
dụng vật chất ấy để thỏa mãn tham
dục của mình. Phật Giáo và Khoa Học cả hai
đều lấy thuyết con người là trung tâm
nhưng sự khác biệt là trong khi Phật Giáo lấy con
người làm trung tâm thì Khoa Học lấy cái tôi làm trung
tâm.
Ðiều
nhận xét thứ hai mà chúng tôi muốn nêu lên liên quan
đến Khoa Học Thuần Túy: Khoa Học thuần túy
hay không thuần túy?
Thuật
ngữ "Khoa Học Thuần Túy", gọi thế vì nó
được coi là 'khoa học và chỉ là khoa học',
nghĩa là kiến thức thuần túy không mảy may quan
tâm đến ứng dụng, được dùng
để phân biệt với Khoa Học Ứng Dụng hay
Kỹ Thuật. Nhưng ngày nay Khoa Học
không còn thuần túy. Trong ý nghĩa Khoa Học thuần
túy có ham muốn tương đối thuần túy nhằm
nghiên cứu qui luật thiên nhiên, có thể gọi là thuần
túy, nhưng khi những giá trị khác xâm nhập vào
việc nghiên cứu, nó trở nên không thuần túy.
Tương đồng trong phương pháp
nhưng khác biệt trong việc đặt tầm quan
trọng.
Sau khi đã nhìn vào mục đích của sự tìm
hiểu, bây giờ chúng ta xét đến các phương tiện
để đạt được mục tiêu ấy.
Thế nào là phương pháp được
sử dụng trong Phật Giáo để tìm kiến
thức? Trong Phật Giáo, phương pháp dùng tìm chân
lý có ba lớp:
Thứ
nhất, nhận thức kinh nghiệm phải trực
tiếp và vô tư. Vô tư
là sự nhận thức mọi sự đúng như chúng tồn
tại. Phật Giáo nhấn mạnh giá trị về
cách nhìn sự thật đúng ngay từ nhận thức
tiên khởi: khi mắt nhìn cảnh, tai nghe âm thanh, và vân vân..
Hầu hết với đa số, đó là
một vấn đề. Nhận thức luôn luôn
đi theo cái cách mà người ta
muốn sự vật là như thế, tức là như
họ nghĩ mà không như chúng thực sự diễn ra.
Họ không thấy sự vật vận động theo qui luật của nó vì nhầm lẫn,
xuyên tạc, thành kiến và quan niệm sai lầm.
Thứ hai, phải suy nghĩ có trật tự,
tức là suy nghĩ có hệ thống. Thêm
vào phương pháp nhận thức một cách trung
thực, phải có cách suy nghĩ trung thực.
Thứ
ba, phương pháp kiểm chứng sự thực, hay
nghiên cứu kiến thức là qua kinh nghiệm trực
tiếp.
Làm sao bảo đảm được sự
nhận thức về kinh nghiệm mà không có thành kiến?
Thông thường bất cứ lúc nào khi con người
nhận thức kinh nghiệm sẽ có một số giá
trị nào đó tức khắc xen vào. Ngay
tại chỗ này, nẩy sanh kiến thức đầu
tiên, đã có một vấn đề, đó là có sự dính
líu hay không dính líu đến những giá trị ấy.
Cái gì là những giá trị ấy? Những sự kiện nhập vào lĩnh vực
nhận thức sẽ có những đặc tính khác
biệt, tạo thành những cảm nghĩ thích thú hay không
thích thú. Tất cả những kinh
nghiệm của chúng ta đều giống như vậy.
nếu thích thú chúng ta gọi là hạnh
phúc, trong khi nếu không thích thú, gọi là khổ đau.
Khi
nhận thức phát sinh, chúng ta chứng nghiệm một
cảm nghĩ dễ chịu hoạt động của
tâm thức tức khắc đưa đến thích hay
không thích. Chúng ta gọi đó là khoái cảm hay ác cảm,
thương hay ghét. Cho nên nhận thức những cảm
xúc bị những đặc tính thiện cảm hay ác
cảm và vui thích hay chán ghét chen vào.
Những phản ứng ấy hình thành thói quen cho con
người, từ ngày mới sinh, làm cho con người
cực kỳ chao đảo. Ngay khi một kinh nghiệm
được nhận thức, những giá trị
thoải mái, không thoải mái, hay dửng dưng, theo liền tức khắc và từ đó
thương hay ghét, vui thích hay ác cảm.
Sau
khi khoái cảm, ác cảm, thích hay không thích, yêu hay ghét phát
sinh, sẽ có sự suy nghĩ theo
cảm nghĩ đó và bị ảnh hưởng của
những cảm nghĩ đó. Nếu hấp
dẫn, tư tưởng sẽ có tâm trạng này, nếu
là ghét bỏ, tư tưởng sẽ có tâm trạng khác.
Do đó, kiến thức tích lũy cũng bị bóp méo,
chao đảo hay thành kiến. Nhận thức sai lầm,
sẽ làm tăng nhanh khâu thu thập
dữ kiện và chọn lựa chúng. Chỉ một vài quan
niệm trí tuệ được nhìn nhận, không phải
là tất cả, thành thử kiến thức không rõ ràng
hoặc không toàn diện. Tóm lại, nhận
thức không đúng bản chất của sự vật.
Chính vì thế, trong Phật Giáo chúng tôi nói, chúng ta
phải xây dựng chính chúng ta một cách đứng
đắn. Phải nhận thức
sự vật đúng như chúng tồn tại, nhận
thức bằng sự chú tâm chẳng thích mà cũng
chẳng không thích. Chứng nghiệm phải
được nhận thức với một tâm ý tỉnh
thức c?a một người học
hỏi, khách quan, không phải tâm ý thuơng hay ghét.
Làm sao ta nhận thức bằng tâm đang
nhận thức? Tóm lại có hai phương cách
để nhận thức với một tâm ý đang tìm
hiểu:
1.
Nhận thức bằng cách nhìn vào sự thật: Ðó là
nhận thức về mọi sự đúng như chúng
tồn tại, không bị tác động và bóp méo sức
mạnh của sự thích hay không thích. Ðó là
loại nhận thức thuần túy, hiểu biết cơ
bản về kinh nghiệm, không thêm thắt một đánh
giá chủ quan nào cả. Nhận thức
này được nói đến trong kinh "nhận
thức vừa đủ để mở mang trí
tuệ". vừa đủ
để biết và hiểu chứng nghiệm vì nó là
như thế, sự hiện diện của ký ức
chỉ là để thâu thập các dữ kiện. Ðặc
biệt, nhìn sự vật theo nguyên nhân
và những điều kiện của chúng.
2.
Nhận thức trong đuờng lối mang lợi ích:
Ðó là nhận thức với một giá trị thiết
thực, thật sự hữu dụng, thay vì phục
vụ, cố thỏa mãn giác quan hoặc làm mất tác
dụng của giác quan. Nhận thức kinh nghiệm theo đường lối đó dẫn
tới có thể sử dụng tất cả những kinh
nghiệm thích lẫn không thích.
Loại
hiểu biết thứ hai có thể được mở
rộng tới mức: kinh nghiệm là chức năng
tự nhiên của sự sống, và nó liên hệ chặt
chẽ với môi trường tự nhiên để
nhận được lợi ích. Nhưng
muốn đời sống có lợi từ những kinh
nghiệm, chúng ta phải nhận thức đúng về kinh
nghiệm. Nghĩa là, phải có một
sự cố gắng có ý thức để nhận
thức trong một cách thức dẫn tới thấy
được triển vọng có đem lại lợi ích
trong việc giải quyết các vấn đề và dẫn
đến mở mang đời sống. Nếu không,
nhận thức chỉ là một công cụ để
thỏa mãn dục vọng của giác quan, hoặc là
một nguyên nhân để làm đảo lộn các dục
vọng của giác quan, và tất cả lợi ích
đều tiêu tan. Loại nhận thức từ kinh
nghiệm lĩnh hội kinh nghiệm theo
các đó hình thành loại nhận thức sử dụng
đến kinh nghiệm. Dù các kinh nghiệm ra
sao, tốt, xấu, tiện lợi hay không, cũng vẫn
có thể đem sử dụng mang lại lợi ích.
Tất cả đều do chúng ta học cách lĩnh
hội những kinh nghiệm ấy có đúng hay không.
Ở đây mục tiêu của chúng ta là tìm ra chân
lý, chúng ta phải nhấn mạnh loại nhận thức
thứ nhất. Trong loại này, nếu
tránh được những nguồn tin sai lầm, hậu
quả của khoái cảm hay ác cảm không xẩy ra,
nhận thức sẽ đem lại nhiều cách thức
tìm hiểu.
Loại nhận thức này rất quan trọng
trong việc nghiên cứu và học hỏi. Chúng ta hãy
học hỏi đúng ngay từ nhận thức lúc ban
đầu. Trong Phật Giáo điểm này được
nhấn mạnh - nhận thức để học
hỏi, không phải để chiều theo
thị hiếu, để thỏa mãn tham dục của
giác quan. Khoa Học không nói nhiều
đến việc này, và cũng không nhấn mạnh,
nhưng nếu mục tiêu là để nhận thức chân
lý thì phương pháp này rất thiết yếu.
Nhân tố thứ hai để giành đươc
kiến thức là cách suy nghĩ đúng (chánh tư duy).
Ðiều này có nghĩa tư duy phải có cách
thức, hợp lý, phù hợp với nguyên nhân và
điều kiện. Nhiều cách tư
duy được ghi nhận trong Kinh Phật. Suy nghĩ
thành thực là nhân tố quan trọng trong việc mở
mang quan điểm đúng (chánh kiến), hiểu biết
hay tầm nhìn xa thấy phù hợp với thực tế.
Ðó là cách nhìn mọi sự theo nguyên nhân và
điều kiện, hay hiểu thấu nguyên tắc về
nguyên nhân và điều kiện. Một số loại suy
nghĩ chín chắn được giải thích trong kinh:
1.
Tìm nguyên nhân và điều kiện: Loại tư duy này
là điều quan trọng nhất trong sự giác ngộ
của Ðức Phật. Thí dụ để tìm ra sự
thật về 'thọ' (cảm giác, cảm xúc), kinh
nghiệm về lạc thú và đau đớn, Ngài hỏi:
"Những cảm giác về lạc thú hay đau
đớn tùy thuộc vào cái gì? Ðiều
kiện của chúng là cái gì? "
Suy
nghĩ như vậy, Ðức Phật thấy rằng do
'xúc', cảm giác của sự tiếp xúc, là điều
kiện của cảm giác. "Bây giờ
điều kiện của xúc là gì? Ðức Phật
thấy sáu giác quan căn bản là điều kiện
của xúc là......và vân vân...Trên đây là thí dụ về
tư duy theo nguyên nhân và điều
kiện.
2.
Tư duy bằng cách lý giải: Sự sống của
cơ thể người có thể phân tách thành hai bộ
phận cấu thành chính: thân và tâm. Thân và tâm
sẽ được phân tách cặn kẽ hơn. Thí
d?, tâm có thể phân tách thành thọ,
tưởng, hành, thức (x), và mỗi loại như
vậy lại được phân tách thành những bộ
phận cấu thành nhỏ hơn. Thí dụ
thọ có thể chia thành ba loại, năm loại, sáu
loại hay hơn nữa. Ðiều trên
được gọi là " tư duy bằng cách lý
giải các bộ phân cấu thành', đó là cách phân chia toàn
bộ bức tranh hay toàn bộ hệ thống, do đó mà
những nguyên nhân và điều kiện liên hệ có
thể nhận thấy dễ dàng hơn.
(x)
Chúng là bốn uẩn tinh thần hợp với sắc hay
dạng thức vật chất, hình thành toàn bộ của
một đời sống.
3.
Tư duy về phương diện lợi và hại: Ðó
là cách nhìn mọi sự bằng cách cân nhắc đặc
tính của chúng, thấy được các chiều
hướng trong đó chúng mang lại lợi ích hay gây tai hại cho chúng ta, không chỉ nhìn riêng
về một mặt lợi hay môt mặt hại. Ða số có khuynh hướng chỉ nhìn lợi ích
của những vần đề mà họ thích, hoặc cái
gì sai của những vấn đề mà họ không thích.
Phật Giáo nhìn vào mọi sự từ
mọi phía, dạy cho chúng ta nhìn cả vào phần mang
lợi ích lẫn phần tác hại của chúng.
Những loại tư duy như vậy vào
khoảng mười loại được ghi trong các
kinh. Chúng là một phần quan trọng trên cho con
đuờng dẫn đến chân lý.
Trong
nghĩa rộng, tư duy gồm cả cách nhận
thức các vấn đề, nhận thức lúc ban
đầu, và, giống như các dạng thức nhận
thức, có thể chia thành hai nhóm chính - đó là tư duy
cốt để để nhìn thấy chân lý, và tư duy
trong phương cách đem lợi ích. Tuy nhiên
tôi không mở rộng đề tài về điểm này vì
điểm này đòi hỏi nhiều thì giờ.
Kế
theo là phương pháp thứ ba
để đạt chân lý trong Phật Giáo là xác minh qua kinh
nghiệm bản thân. Một trong những nguyên tắc quan
trọng trong Phật Giáo là chân lý có thể được
biết và kiểm tra thông qua theo d‚i quan
sát bằng kinh nghiệm trực tiếp. Thí dụ nhìn
lại Kinh Kalama, người Kalama được Ðức
Phật khuyên giảng không nên đơn giản tin vào
mọi sự, tóm lại là "khi chính bạn đã nhìn
thấy cái hay hay cái dở rồi thì phát triển cái hay và
loại bỏ cái dở". Giáo lý này rõ ràng làm sáng tỏ
cách thực hành căn cứ theo kinh
nghiệm bản thân.
Nhìn vào cuộc đời Ðức Phật, chúng ta
có thể thấy thấy pháp quán chiếu kinh nghiệm
bản thân này trong suốt quá trình tu tập của chính
Ngài. Khi Ngài rời cung điện tìm giác ngộ, Ngài
đã thực hành các phuơng pháp tu tập thời bấy
giờ: tu khổ hạnh, du già, nhập định và
tĩnh tọa. Cả đến khi Ngài
sống trong rừng, Ngài thực hành tất cả các
phương cách thí nghiệm. Thí dụ, Ngài kể khi
Ngài đã sống một mình trong rừng hoang như
thế nào, do đó Ngài thể thử nghiệm sự sợ
hãi. Trong đêm khuya, một cành cây gẫy có
thể làm sợ hãi. Ðức Phật luôn
luôn tìm hiểu những nguyên nhân gây sợ hãi.Dù trong bất
cứ trạng huống nào, Ngài cũng vẫn giữ nguyên
tư thế bình tĩnh cho đến khi vượt qua
trạng huống đó. Ða số thường
chạy trốn khi sợ hãi! Ðức Phật
không chạy, Ngài ở đó cho đến khi Ngài
vượt qua khó khăn ấy. Một
thí dụ khác, sự thí nghiệm của Ðức Phật
với tư tưởng tốt và xấu. Ngài thí nghiệm với tư duy của Ngài cho
đến khi có thể làm các tư tưởng không
tốt lắng xuống.
Ðức Phật dùng phương pháp chứng
nghiệm bản thân suốt trong việc tu tập của
Ngài. Khi Ngài dạy các đệ tử,
Ngài dạy các đệ tử hãy đánh giá cẩn
thận vị đạo sư trước khi tin vị
ấy, vì niềm tin bao giờ cũng là phương
tiện để phát triển trí tuệ. Ðức
Phật dạy các đệ tử phải đánh giá
cẩn thận các vị thầy, ngay cả chính Ðức
Phật nữa, xem có triển vọng nào dẫn tới
chân lý trong sự dạy dỗ của họ hay không, và cho
đến động cơ giảng dạy của
thầy có trong sáng hay không.
Thử nghiệm kiến thức của vị
đạo sư có thể phán xét qua lời giảng của
vị thầy có hợp lý hay không. Thử
nghiệm chủ tâm của vị thầy có thể phán xét
qua ý đồ của vị Thầy lúc giảng dạy.
Có phải vị thầy giảng dạy vì
ham thích được thưởng công? Phải chăng là muốn có sự biếu xén, hay
một lợi lộc cá nhân vì giáo lý của mình, không
phải là đem lợi ích cho người nghe. Nếu sau khi đánh giá vị thầy, thấy tín
nhiệm ta có thể tiếp nhận lời giáo huấn.
Sự đánh giá và lượng định
này tiến hành qua tất cả các mức độ quan
hệ thầy-trò.
Chúng ta có thể nhìn vào lời dạy về
Bốn Nguyên Tắc Ðịnh Tâm, nhấn mạnh vào
thiền quán nội tâm. Khi tập
thiền nội tâm, chúng ta lúc nào cũng phải xem xét và suy
nghĩ sâu đến những kinh nghiệm đã đi vào
nhận thức của ta khi chúng xuất hiện. Dù
là cảm nghĩ thích thú hay không thích thú xuất hiện, dù
tâm bị phiền muộn hay phấn khởi, Ðức
Phật dạy hãy nhìn vào nó và nhận biết nó nẩy
sanh, chuyển động và biến đi.
Dù là sự tu tập ở giai đoạn cao
nhất, khi lượng định để xem một
người đã giác ngộ hay chưa, hãy nhìn ngay vào tâm
chúng ta, xem trong tâm còn tham sân si không, hơn là nhìn vào những
dấu hiệu đặc biệt hay phép lạ.
Vì
sự nhấn mạnh vào lãnh vực nghiên cứu trong
Phật giáo và Khoa Học khác biệt trên phương
diện quan sát, thí nghiệm và kiểm chứng nên kết
quả trong hai phạm vi này cũng khác nhau. Khoa học
cố gắng quan sát sự việc trong vũ trụ
vật chất, dùng năm giác quan, với mục tiêu thao
túng vũ trụ vật chất bên ngoài. Trong
ngôn từ Phật Giáo chúng ta có thể nói Khoa Học tinh
thông trong các lãnh vực vật lý và sinh học.
Mặt khác, Phật giáo nhấn mạnh việc
nghiên cứu con người, thừa nhận kinh nghiệm
qua tất cả giác quan, gồm cả giác quan thứ sáu,
tâm. Mục tiêu tu tập của
người Phật Tử là đạt được
điều thiện cao nhất, và thấu hiểu chân lý
thiên nhiên. Thậm chí trước khi
đạt được mục tiêu, cũng có sự
uốn nắn các vấn đề và những bước
tiến trong sự phát triển con người. Vì lý
do đó, lời dạy và phương pháp đề
cập đến quan sát, thí nghiệm, kiểm chứng
hiện tượng tinh thần cùng cách cư xử
của con người. Trong thuật ngữ
Phật Giáo chúng tôi có thể nói Phật Giáo có sức
mạnh trong lãnh vực luân lý và tâm linh.
Nếu
có thể hòa nhập các lãnh vực chuyên môn tương
ứng của Khoa Học với Phật Giáo, gom thành
quả lao động của cả hai
lại, chúng ta có thể tiến đến một
đường lối cân đối dẫn nhân loại
phát triển tới mức độ cao hơn.
Những khác biệt
trong phương pháp
Về vấn đề của ba phương pháp
tìm kiến thức, chúng tôi muốn nhắm vào sự khác
biệt giữa những phương pháp ấy trong
Phật Giáo và Khoa Học.
Trước
tiên, Khoa học sử dụng phương pháp thu thập kiến thức để tìm chân
lý. Sự thâu thập kiến thức này hoàn toàn tách rời
khỏi những quan tâm về cách sống con người,
trong khi Phật Giáo, phương pháp đạt kiến
thức là một phần của lối sống con người.
Khoa Học không quan tâm gì đến cách sống con
người, chỉ nhắm vào chân lý riêng cho nó, nhưng
Phật Giáo, phương pháp là một phần của
lối sống- thực tế đó là lối sống- có
ảnh hưởng tích cực đến đời
sống ngay trong hiện tại. Thí dụ, hãy
xét ảnh hưỏng của nhận thức thuần túy
đến chất lượng đời sống, mà không
có sự can thiệp của thích thú hay ghét bỏ. Sự nghiên cứu kiến thức của
Phật Giáo tự nó có giá trị rất to lớn, không màng
tới mục tiêu đạt được hay không.
Khoa
Học lấy dữ kiện do kinh nghiệm phát xuất
từ năm giác quan, trong khi Phật Giáo gồm cả kinh
nghiệm của giác quan thứ sáu, tâm mà Khoa Học không
thừa nhận. Phật Giáo cho rằng giác
quan thứ sáu là một sự thật có thể kiểm
chứng, Tuy nhiên, sự kiểm chứng chỉ thực
sự được thực hiện qua những giác quan
tương ứng với những dữ kiện của
nó. Chẳng hạn muốn kiểm tra vị, ta
phải dùng lưỡi; muốn kiểm tra âm thanh to
nhỏ, ta phải dùng tai, chứ không
phải mắt. Nếu muốn kiểm
chứng mầu sắc, ta không thể dùng mũi
được. Giác quan căn bản để xác
minh dữ kiện phải tương ứng với
loại dữ kiện được kiểm chứng.
Nếu giác quan thứ sáu không được
thừa nhận, chúng ta sẽ mất đi một số
dữ kiện to lớn vì có nhiều chứng nghiệm,
cảm giác chỉ phát xuất từ tâm. Chẳng hạn chúng là những chứng nghiệm
trong tâm, mà người ta có thể kinh qua và xác minh như
thuơng, ghét, sân hận và sợ hãi. Những cảm
nhận này không thể xác minh hay chứng nghiệm qua những
giác quan khác. Nếu ta cảm thấy tình
thương trong tâm của chúng ta thì có thể tự mình
xác minh được. Khi có sợ hãi hay giận
dữ, hay cảm nghĩ thoải mái, an lạc, thỏa
mãn, chúng ta biết trực tiếp từ tâm chúng ta.
Cho nên, trong Phật Giáo chúng tôi cho giác quan thứ
sáu là tâm và sự tư duy của nó, một vai trò nổi
bật đáng chú ý trong việc nghiên cứu kiến
thức hay chân lý. Nhưng Khoa Học không thừa
nhận giác quan thứ sáu, phải nhờ vào các dụng
cụ thiết kế cho năm giác quan, chủ yếu là
mắt và tai, cũng như điện
não đồ để nghiên cứu tiến trình suy
nghĩ.
Khoa
học gia cho chúng ta biết trong tương lai họ có
thể biết một người đang nghĩ gì
đơn giản chỉ cần dùng một cái máy, hay phân
tích các chất tiết ra từ bộ não. Những
thứ như vậy có cơ sở thực tế,
nhưng sự thật của các vấn đề ấy
sẽ cho thấy, chắc chắn giống như Sir Arthur
Eddington khám phá "Cái bóng của thế giới các ký
hiệu". Không phải thực sự
là chân lý mà chỉ là cái bóng của chân lý.
Ðiều
trên cho thấy chân lý khoa học, giống như
phương pháp khoa học, không hoàn hảo, vì nó chỉ
chọc thủng một trong những qui tắc về quan
sát. Công cụ không phù hợp với dữ
kiện. Chừng nào điều này vẫn còn đúng
thì khoa học vẫn tiếp tục quan sát cái bóng của
sự thật chân lý trong một thời gian dài sắp
tới.
Về giác quan thứ sáu, tâm, cũng rất quan
trọng trong khoa học. Khoa học chính nó phát
triển do giác quan thứ sáu này, ngay từ lúc ban
đầu cho đến nay gồm các mức độ thí
nghiệm và tổng kết. Cơ bản có
thể tin được là, trước khi bất cứ
giác quan nào được sử dụng, khoa học gia
phải dùng suy nghĩ. Khoa học gia
phải thiết kế, hoạch định một
phương pháp kiểm chứng, và một giả
thiết. Tất cả những hoạt
động đó đều là tiến trình trí tuệ, nó
lệ thuộc tâm. Cả đến khi áp dụng
thực tế cũng phải có tâm theo
d‚i sát các sự kiện bằng nhận thức, ghi chép. Tâm là trọng tài, là vị quan tòa phán xét chấp
nhận hay không chấp nhận những dữ kiện
xuất hiện trong cuộc thí nghiệm.
Các
giai đoạn quyết định của nghiên cứu
khoa học, đánh giá và kết luận cuộc thí
nghiệm, công thức của một lý thuyết vân vân..., tất
cả đều do tiến trình tư tưởng Chúng ta
có thể tin tưởng mà nói rằng những lý thuyết
của khoa học là tất cả kết quả của
tư duy, là thành quả của giác quan thứ sáu, trực
tiếp cảm thấy. Phật Giáo thừa
nhận sự quan trọng của giác quan thứ sáu như
một nguồn mà qua đó những sự việc có
thể được lĩnh hội qua giác quan thích
hợp.
Ðiểm
quan trọng là nhận thức đó phải
được nhận đúng do giác quan liên hệ. Ðiều gì nhận thức bằng mắt, mắt
phải nhận thức. điều
gì nhận thức bằng lưỡi, lưỡi phải
nhận thức. Cũng lẽ đó, điều gì
phải nhận thức bằng tâm, không thể nhận
thức bằng mắt, tai hay bất
cứ giác quan nào ngoài tâm ra.
Sự thật của tâm là tiến trình nguyên nhân
và kết quả có thể kiểm chứng
được. Nó lệ thuộc các qui
luật tự nhiên. Dù có vẻ rất phức tạp
và khó khăn theo dõi, Phật Giáo dạy
tâm cũng tuân theo dòng nguyên nhân và điều kiện,
giống như tất cả hiện tượng thiên nhiên
khác.
Trong
thế giới vật chất, hay vật lý, điều
phải công nhận là tất cả sự vật hiện
hữu đều do nguyên nhân và các điều kiện,
nhưng trong những điều kiện hết sức
phức tạp, khó có thể tiên đoán hay theo d‚i sự
việc. Một thí dụ đơn giản như dự
báo thời tiết được công nhận là việc
làm rất khó khăn, vì có quá nhiều thay đổi. Sự nối tiếp của nguyên nhân và
điều kiện trong tâm lại càng phức tạp
hơn những yếu tố về thời tiết, làm
tiên đoán kết quả lại càng khó hơn nữa.
Con
người là một phần của thiên nhiên chứa
đựng tất cả thiên nhiên trong con người. Nếu có thể mở mắt và nhìn, người
ta có thể đạt được chân lý tự nhiên
như một chứng nghiệm trực tiếp. Dùng máy móc khoa học, một hình thức mở
rộng năm giác quan, là cách làm vòng. Nó
chỉ có thể xác minh sự thật ở một mức
độ nào đó, chỉ đủ để chinh
phục thiên nhiên và thế giới bên ngoài (tới một
mức độ nào đó), nhưng không thể dẫn con
người đến chân lý toàn vẹn của sự
thật.
Cho
đến nay chúng tôi đã đề cập đến
những khác biệt và tương đồng trong tầm
hoạt động và đối tượng của
Phật Giáo và Khoa Học, loại kiến thức đang
tìm kiếm, những phương pháp sử dụng
để tìm kiến thức, việc sử dụng
kiến thức đạt được và toàn bộ
mục tiêu của kiến thức. Mặc dù
phương pháp để tìm hoạt động và
việc đặt tầm quan trọng, nhưng những
phương pháp ấy đưa đến sự dị
biệt về tầm xa và trong việc mở rộng, vì
chân lý được nghiên cứu lại khác hẳn nhau.