Tôi ra đời được vài năm thì bố mất,
mẹ tần tảo nuôi đàn con, chú em còn nhỏ hơn, chỉ mới lọt lòng. Bà nội
lâu lâu lại ngửa mặt thở dài, thằng anh hơn thằng em một tuổi, chả là
đẻ năm một, chẳng biết rồi sẽ ra sao hay là lại tan đàn xẻ nghé con cái
mỗi đứa vứt một nơi. Đầu nhà có đàn gà con chiêm chiếp, những
chú gà non đẹp như chim non nấp trong cánh mẹ, leo lên lưng lên cổ mẹ.
Tôi là một thằng bé buồn sớm, lo âu vẩn vơ nghĩ ngợi vẩn vơ và nhiều khi
tự dưng cũng thở dài một cái cho ra vẻ người lớn.
Ngày đi học phải lập giấy khai sinh, người bảo tôi
tuổi quí mùi người lại bảo giáp thân, chẳng biết đằng mù nào mà lần.
Nhưng dù tuổi gì thì cũng thế cả thôi, ngữ tôi khỉ hái quả hay dê kiếm
lá cũng vẫn là cái kiếp bới đất lật cỏ, nào có khác gì nhau, ăn thua
mẹ gì, ông trời còn cho sống đã là may mắn lắm rồi.
Vừa kịp học hết trung học thì đầu quân, được gọi
là anh bộ đội, người chiến sĩ thì hởi lòng hởi dạ mà bảo là thằng lính
thì ngượng ngập đến tê tái cả lòng. Là bởi ngay từ nhỏ đã được dạy mấy
từ người chiến sĩ có mang một ý nghĩa cao quí, vì nhân dân mà phục
vụ vì tổ quốc mà hy sinh. Còn như nếu là một thằng lính thì chẳng qua
chỉ là một kẻ đâm thuê chém mướn, sai gì làm ấy bảo gì nghe ấy, vậy
thì ngao ngán mà nhục lắm. Và như thế thì dứt khoát không thể là cái
phận mình. Tôi nghĩ như vậy và tôi sống như vậy. Ở trong bộ đội nhiều
anh đi trước cũng hiểu tôi là đứa như thế và họ yêu.
Tiếng là đã nhiều lần theo anh em vào rừng ra biển,
đi nhiều nơi gặp gỡ đủ các hạng người, học hỏi khôn lớn lên nhiều, nhưng
nhìn lại thấy con đường của mình đã đi hóa ra quanh quẩn vẫn mới
chỉ là từ bờ bên kia qua bờ bên này con sông Hồng mà thôi. Từ nhà sang
Hà Nội chỉ vài bước chân, qua cầu Đuống, qua cầu Long Biên là đến.
Ngần ấy năm làm người Hà Nội, đã từng cùng đồng đội ăn ngủ vạ vật trong
các mái bạt mái lá khắp các chân đê bờ bãi, đâu đâu cũng gặp những lam
lũ là lam lũ, đàn ông đàn bà người lớn trẻ thơ ai cũng nhọc nhằn cần
kiệm và hết sức chất phác. Sáng một hồi kẻng ra đồng. Trưa một hồi kẻng
nghỉ ăn cơm. Chiều lại kẻng tối cũng kẻng. Những dòng người hàng một
lam lũ đi ngang trên đồng nét mặt lầm lì chịu đựng không biết bao nhiêu
nỗi niềm. Thỉnh thoảng nghe đâu đây vẫn có những tiếng cười, đấy là các
cô gái tuổi mười tám hai mươi mỗi khi có dịp lại gần các trận địa cao
xạ. Có ông già nào đó quát to dở đùa dở thật, mấy đứa này tránh xa các
anh ấy ra, đây là chỗ đùa của chúng mày đấy hẳn. Hình như vào thời đó,
bất chấp mọi lam lũ đói no, bất chấp mọi hiểm nghèo, chỉ có các cô gái
là vẫn cứ cười nói vui vẻ, lớn nhanh phổng phao như chẳng cần ăn uống
và họ đều rất đẹp, rất tươi sáng, mặc dù thiếu son phấn, chả có gì để
mà trang điểm ngắm vuốt.
Tất cả được gộp chung vào một khái niệm cao cả, nhân dân. Và cái khái
niệm ấy lại được gói vào trong một câu hát cửa miệng "vì nhân dân quên
mình vì nhân dân hy sinh...". Đâu cũng hát, lúc nào cũng hát. Năm tháng
qua đi, thời thế đổi thay, giờ mỗi khi nghĩ đến nhân dân sao cứ thấy
phải giật mình. Nhớ đến những nẻo đường xa ta đã đi qua, nhớ đến những
khuôn mặt người ta đã từng gặp và yêu dấu mà thấy giật mình. Ngay đến
quê hương cũng cứ mờ mờ tỏ tỏ ngày một ít về.
Hình như đã có không ít những đường lối chính sách,
đã có quá nhiều cách khu xử với nhân dân, với đất đai đồng ruộng làm ta
phải giật mình.
Mỗi năm mỗi tuổi cứ ngại dần việc quay về những
chốn ấy, gặp lại những ngày xưa với những người đã nuôi sống ta đùm bọc
ta và hết lòng thương yêu tin cậy ta. Đấy là những người đã từng cùng ta
sống chết, chẳng ai khác chính họ sẽ vuốt mắt chôn ta nếu ta nằm xuống
sau một trận đánh trên cánh đồng làng họ. Và ta chỉ có thể tìm thấy
từ họ những tình yêu lớn để làm đầy thêm lòng yêu tổ quốc của mình.
Tổ quốc là rất xa nơi xác bạn tôi một ngày được sóng
hất lên bãi vắng, đàn còng đuổi gió chạy nhung nhăng, trăng xóa ngàn
lau vu vơ năm tháng. Tổ quốc là rất sâu, nơi anh tôi nằm giá lạnh giữa
ngổn ngang súng mìn trong con tàu không số chìm trăm sải vùng nước tối,
lặng im không để lại một lời... Tổ quốc một tình yêu lớn hơn mọi tình
yêu đứng trên tất cả những gì đúng sai khôn dại, để ta phải có những đêm
dài thức với bóng mình trước mảng tường vôi.
*
Giữa những bộn bề thường nhật rất khó lường hết được
mọi phức tạp đang diễn ra quanh mình. Thế rồi bỗng một trận lụt cục
bộ hình như ông trời dành riêng cho Hà Nội đã xảy ra. Nó lập tức
trở thành một cảnh báo, một nhắc nhở, không thể chối cãi bởi nó quá hiển
nhiên.
Đứng trước một sự thật không mấy vui mừng như vậy
người ta có hai cách ứng xử, hoặc chân thành nhìn nhận hoặc quanh co
lảng tránh, chân thành là một dũng cảm khó khăn, dẫu sao vẫn còn
giữ được danh dự, quanh co sẽ mất danh dự, mà mất gì thì mất chứ mất
danh dự mới là mất hết. Nhân cách con người ta không hiện ra ở trong sai
lầm mà nó hiện ra khi đứng trước những sai lầm.
Nào đã là vỡ đê vỡ đập gì cho cam, bất
quá chỉ là mấy ngày mưa lớn, thế thôi. Khắp trái đất thiếu gì những
chỗ đang mưa lớn lụt lớn, mình đã vần gì, cái đáng nói ở đây là chỉ mới
thế đã lộ ra vô số những kém cỏi lúng túng. Ngần ấy năm vừa xây vừa hát
xây cho nhà cao cao mãi, xây ngất trời trên một nền tảng thiếu chuẩn
bị lâu dài kỹ lưỡng, trong một môi sinh ngày một tồi tệ, có nghĩa
là xây lấy được, xây bất chấp không cần tính đến chân móng hạ tầng
nó là sự ồ ạt khiến người ta không thể không ngờ vực.
Vào dịp 700 năm vua Trần Nhân Tông nhập niết bàn,
ngồi ngẫm thấy thời gian xem ra cũng đã lâu, vậy mà chặng đường
từ đó đến hôm nay của dân tộc hóa ra cũng chưa phải dài gì cho lắm, chưa
dài gì cho lắm bởi các thế hệ đến sau nhìn chung còn cần phải bàn
nhiều, đây là một giai đoạn nảy sinh và để lại nhiều bài học cay đắng,
đang lo là đã thấp hơn tư cách sang trọng và lẫm liệt của các bậc tiền
nhân buổi khai mở xa xưa. Nhìn lại kỹ càng thấy hai triều Lý Trần quả là
một cuộc khai mở vạm vỡ kiêu hãnh của dân tộc mình.
Giờ đây công việc qui hoạch và tổ chức xây dựng một
thành phố có nghìn năm văn hiến như Hà Nội đâu phải chuyện nhỏ,
nó là rất to lớn và rất hệ trọng, một công việc có tầm vóc lịch sử, mang
ý nghĩa lịch sử. Vinh quang nhiều nhưng thách thức nặng nề. Sự nghiệp
lớn bao giờ cũng thuộc về những nhân cách lớn, tầm vóc tầm nhìn lớn,
gánh vác này không nằm trên vai những ai yếu đuối tầm thường. Và tất
nhiên nó không thể là chuyện một sớm một chiều.
Sau chiến tranh tôi có những năm về sống ở quê nhà,
một chuyến theo anh em ngành địa chất và lâm nghiệp lội vào vùng núi Yên
Tử lang thang khắp các khu mỏ cánh rừng làng mạc. Thấy vùng đất ấy
đẹp và thiêng mà cũng rộng và sâu lắm. Đền đài chùa chiền miếu mạo mỗi
cái một vẻ, cổ kính phong sương, dung dị khiêm nhường không một chút
phô phang, càng không hoành tráng, nhiều mà không tẻ nhạt, nhiều
mà không thừa. Sự thiêng liêng thường nằm trong vẻ u tịch kín đáo chứ ít
thấy ở những chỗ bề thế nghênh ngang. Thời ấy người biết trọng cái
cốt kiêu mà coi rẻ cái dáng kiêu.
Trong những quần thể kiến trúc ở đó có cất giữ hồn
cốt Việt, giàu sức cảm sức nghĩ, không một chút kiêu kỳ vậy mà vẫn
cứ rất kiêu sa, kiêu sa mà sao thân thiết như một lời thì thầm gần gụi
của người xưa. Nó đều đã được xây đắp một cách bình tĩnh kiên trì đời
này qua đời khác không nản lòng cũng không khoe khoang. Có cái
làm ở thời Trần, có cái ở thời Lê, lại có cái chỉ mới đây thôi, đời Minh
Mạng.
Thời gian không thể tàn phá nổi bởi con người hết lớp
này qua lớp khác đã thay nhau không ngừng chăm sóc giữ gìn. Ấy vậy
mà chỉ trong vòng một thế kỷ vừa qua hầu hết các công trình bỗng thành
hoang phế không mong gì cứu chữa nổi. Kiêu hãnh thay, nó dù có bị hoang
phế thì nền móng của nó vẫn cứ đang trơ gan cùng tuế nguyệt, những dấu
tích vẫn đang còn đó. Hỏi các vị bô lão trong vùng mới biết có
chỗ là do Tây đốt, có chỗ là do ta đốt, ta đốt phá mới nhiều mới dữ.
Một cụ chống gậy lọm khọm bước đến trước tôi kể, chính tôi
hồi ấy đã được cấp trên gọi đi đốt phá cả chục ngôi chùa, tượng lớn
tượng nhỏ cho trôi sông tuốt. Rồi ông cụ tặc lưỡi cười rất thành thực,
thì cái thời nó thế, tôi lúc đó trẻ đang hăng lắm, được phong làm
trưởng ban phá hoại huyện.
Trong chuyến đi ấy tôi vẫn còn có may mắn được chiêm
ngưỡng bức tượng đá cẩm thạch tạc vua Trần Nhân Tông dựng trước lăng
Ngài. Bức tượng không to, tầm vừa phải, một vị vua minh triết, dễ gần
gụi, khuôn mặt nhân từ như đang cười, nhác nom hao hao có những nét của
Bác Hồ mà đọc dòng chữ dưới bia lại ghi tượng được dựng từ cuối Trần.
Gần đây qua màn ảnh nhỏ tôi được xem một bộ phim
tài liệu rất hay bàn về vùng Yên Tử nhìn dưới góc độ văn hóa du lịch của
mấy nhà làm phim trẻ giàu tâm huyết, nhờ thế mà tôi mới được gặp lại
ngôi chùa cổ ba chục năm trước mình đã một lần tới thăm. Cũng qua phim
mới biết bức tượng vua Trần nay đã thành tượng cụt đầu, có đứa nào đã ăn
cắp mất cái phần đẹp nhất của công trình nghệ thuật vô giá đó. Mộ Ngài
cũng đã bị chúng đào bới ngổn ngang, tháp đá thì sắp sạt đổ bằng hết. Bộ
phim tuy ngắn mà sức lay động người xem rất lớn.
Đó là một câu chuyện đau lòng, nếu cầm bút như các sử
gia xưa thì phải bàn đây là triệu chứng điển hình của sự bại hoại tâm
thế, nhân tâm rối loạn, lòng người không yên, cái ác lấn át cái thiện.
Quả là một nỗi buồn lớn, một nỗi lo âu lớn trước một nguy cơ lớn.
Xưa có ông vua con lên ngôi thay vua cha vừa băng hà,
lên hôm trước hôm sau ngài đã cho gọi hai vị tả hữu thừa tướng lên
mà hỏi việc nước. Đầu tiên hãy hỏi tả thừa tướng, nước nhà có bao nhiêu
quân sĩ, có bao nhiêu tù nhân trong ngục, có bao nhiêu thóc trong kho.
Hỏi câu nào vị thừa tướng già cũng tắc tị không biết đường mà trả lời.
Ông vua trẻ lấy làm đắc ý, có thế chứ, như ta đây mới đáng mặt phương
diện quốc gia.
Rồi ngài lại quay sang vặn vẹo hữu thừa tướng cũng
những chuyện ấy. Có bao nhiêu quân sĩ ư, xin nhà vua hãy cho gọi người
bên bộ binh lên hỏi. Có bao nhiêu tù nhân ư, vậy xin cho gọi quan cai
ngục. Có bao nhiêu thóc trong quốc khố ư, xin gọi quan coi kho. Vua con
đập bàn, vậy thì lâu nay cha ta dùng hai ngươi để được việc gì. Hữu thừa
tướng nhẹ nhàng thưa, chúng tôi giúp tiên đế trong việc điều hòa âm
dương. Đấy mới là công việc sống còn của xã tắc. Vua con im lặng.
*
Thế là tết này tôi bước vào tuổi bảy mươi, bảy mươi
mà bảo vẫn trẻ là nghĩa làm sao, liệu còn định sống đến bao giờ mới gọi
là đủ. Những năm vừa qua đã mấy bận dọn nhà, trước là khu tập thể Nam
Đồng, nay về khu tập thể Đội Nhân, loanh quanh vẫn là trong thành
phố này. Lúc trẻ là anh chiến sĩ bảo vệ vùng trời thủ đô, về già cầm
bút ca ngợi Hà Nội hào hoa anh hùng. Phải cái mỗi tuổi một lười, yêu
thì yêu thật nhưng cứ thấy ngài ngại, lo lo mỗi lần bước ra đường.
Phố xá giờ đông quá, nói ngựa xe như nước áo quần như nêm vui là vui ở
đâu ấy chứ ở ta hình như chuyện giao thông đang là một quốc nạn, người
nhốn nháo, người nhớn nhác, chạy ngang chạy dọc, chạy ngược chạy xuôi,
chạy xiên chạy xẹo như bầy kiến vỡ tổ. Lắm lúc tự hỏi mình như một lão
già ngớ ngẩn, thế thì đồng bào định đi đâu mà cứ ùn ùn đổ ra các
ngả vậy?
Một đám đông đầu chụp kín mũ nhựa chạy trên đường
như người từ vật thể bay lạ bước ra, mặt mũi không nhìn rõ nhưng cứ xem
cung cách ứng xử thì thấy đang khiến thành phố trở nên mất bình thường
và một ngày Hà Nội là một ngày mất phong độ sống. Tốc độ cao, dòng
người tắc nghẽn dài, đầu óc hình như nghĩ ngợi cũng chật chội
chả thể sâu sắc trang trọng được. Là vì họ chính là những người đang
chịu nhiều bức xúc nhất.
Cả nhân loại đều biết Hà Nội được tiếng là một thành
phố hòa bình và anh hùng, nhưng ngày nào cũng có những vụ va chạm giao
thông dẫn đến chết người, ngày nào cũng có đâm chém cãi cọ bắt bớ xin
đểu, như thế bảo hòa bình sao được, bảo anh hùng càng không phải. Muốn
cho Hà Nội ra dáng một thành phố anh hùng thì mỗi người Hà Nội cần phải
tỏ ra từ trong bản chất của mình đang có những phẩm chất anh hùng. anh
hùng đúng nghĩa của nó chưa phải là đánh nhau giỏi, chưa phải là to mòm
nói khoác biến báo mưu mẹo giỏi, xưa cụ Khổng Tử từng giải thích cho đám
học trò nghe anh hùng là gì, ông cụ bảo, anh là tự hiểu mình, hùng là
tự thắng mình, chỉ có thế thôi nhưng làm được là khó lắm, nó là phải
biết tu thân suốt đời. Những hạng ba xí ba tú vốn quen sống không biết
sợ, không biết xấu hổ là rất khó lễ phép.
Người Hà Nội cần nhanh chúng cố gắng làm sao để người
đó đi cũn muốn cú lỳc trở về, người chưa đi khụng muốn bỏ đi và người
đến một lần cũn muốn trở lại.
Sắp thêm một tuổi đời, ra vào tự hỏi, liệu đây đã
là chỗ sau cùng, là ngày sau cùng chưa? Chưa thể biết nhưng cái biết
chắc chắn là thấy mình đã hóa một ông già. Già thì tóc bạc râu dài,
điều đó với ai cũng dễ nhưng già lại còn phải biết chậm chân chậm tay,
nói chậm ăn chậm và bớt đi những ham hố tham lam thì hình như không dễ.
Một hôm nọ có cu cậu xe ôm mau miệng hỏi, năm nay
bố chắc phải tám mươi rồi nhỉ, tôi cười khen, anh nói như có thần bảo,
nhưng nếu anh đoán nổi tôi đang có mấy bà thì tôi mới tâm phục khẩu
phục. Khoái quá nó vừa ngoái đầu lại vừa xòe ra hai ngón tay. Tôi lại
cười, giỏi, làm sao anh đoán được tôi hai bà. Bố ơi là bố, thời buổi này
có mấy ông không hai bà, tiền rủng rỉnh trong túi tội gì không ăn chơi
cho bõ những ngày cơm độn, không dám công khai thì thậm thụt, các
bố là lắm mẹo lắm, chúng con xin vái dài.
Có câu sáu mươi tính năm bảy mươi tính tháng tám
mươi tính ngày, xuân thu đắp đổi ngoài sông nước trôi, thời gian đi
không ngừng nghỉ, thời thế thay đổi là chuyện thường tình như sớm nắng
chiều mưa. Thư khố nhà Phật muôn kinh vạn quyển, ở đây xin rút ra mấy
câu Phật bàn về cái kiếp sống của con người nhân một năm mới đang về:
Nền tảng của nó là tự do, mục đích của nó là vui sống, thành quả của nó là không ngừng phát triển.
Có gieo có gặt, gieo gì gặt ấy, cứ nhìn hôm nay mà biết hôm qua và ngày mai của nó.
Đấy là những điều kiện vừa đủ để nâng mình lên chạm
tới cõi tâm linh. Mà tâm linh lại là cái mỗi chúng ta đều đang thiếu
hụt, luôn luôn thiếu hụt, và liệu có phải sự thiếu hụt đó đã sinh ra lắm
nông nỗi.