Điều đó không
khỏi làm chúng ta ngạc nhiên, bởi vì bài kinh
này đứng một vị trí quan trọng, có thể nói là
duy nhất, trong kho tàng kinh điển Phật giáo, vì
một số lý do: thứ nhất, đó là một tài liệu lịch
sử, xã hội quý báu về giai đoạn cuối đời đức
Phật; thứ nhì, kinh chứa đựng một cách cô đọng
những điểm căn bản, chính yếu của giáo lý đạo
Phật; và thứ ba, kinh cho ta thấy sự chuyển biến
từ một con đường giải thoát dưới sự hướng dẫn
của một vị Thầy, tới một tín ngưỡng dân gian với
sự sùng bái di tích của một đấng Thế Tôn.
Nguồn gốc của
Kinh
Kinh Đại Bát Niết
Bàn là bài kinh nói về giai đoạn cuối đời của
đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới
khi Ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
Đầu tiên, chúng
ta hãy tìm hiểu về ý nghĩa của tên kinh: "Đại
Bát Niết Bàn" (Mahāparinibbāna). Mahā tiếng Pali
có nghĩa là to lớn (tiếng Hán là Đại), pari là
hoàn toàn, nibbana là Niết Bàn. Parinibbana/Parinibbāna
(phiên âm sang tiếng Hán là Bát Niết Bàn) là sự
tịch diệt hoàn toàn (extinction complète), sự
chấm dứt hoàn toàn và vĩnh viễn của vòng sanh tử.
Đó là từ dùng để chỉ định sự ra đi, lìa khỏi cõi
đời của các vị Phật Chánh Đẳng Chánh Giác (samma
sambuddha), Phật Độc Giác (pacceka-buddha) và A
La Hán (arahant)(chú thích 1), khác với cái chết
của người thường (marana).
Ngoài ra, khái
niệm "hoàn toàn tịch diệt" (parinibbuta) cũng
được dùng để chỉ định trạng thái tâm linh của
các vị Phật, Độc Giác và A La Hán, khi còn tại
thế.
Do đó, chúng ta
thấy có mặt trong kinh điển hai từ:
1) Sopadisesa
parinibbana, là sự tịch diệt hoàn toàn, sự nhổ
tận rễ những lậu hoặc, ô nhiễm, kiết sử, nhưng
vẫn còn những thể chất của đời sống (Hán: hữu dư
y Niết Bàn).
2) Anupadisesa
parinibbana, là sự tịch diệt hoàn toàn, ngay cả
những thể chất của đời sống (Hán : vô dư y Niết
Bàn). Đó là khi các vị Phật, Độc Giác và A La
Hán lìa bỏ thể xác và cõi đời.
Sopadisesa
parinibbana còn được coi như là kilesa
parinibbana, sự dứt bỏ hoàn toàn những ô nhiễm,
kiết sử, và anupadisesa parinibbana như là
khandha parinibbana, sự dứt bỏ hoàn toàn những
uẩn.
Như vậy, không
phải chỉ có đức Phật Thích Ca mới nhập Bát Niết
Bàn, nhưng Kinh Đại Bát Niết Bàn (chữ Đại chỉ
định sự tôn kính) là bài kinh nói về sự nhập Bát
Niết Bàn của đức Phật Thích Ca.
Để tránh mọi ngộ
nhận, chúng ta phải nói ngay rằng có hai bài
kinh mang tên là Đại Bát Niết Bàn :
- một bài thuộc
hệ Phật giáo Nguyên Thủy (chú thích 2)(Nam tông),
nguyên văn viết bằng chữ Pali, và
- một bài thuộc
hệ Phật giáo Đại Thừa (Bắc tông), nguyên văn
viết bằng chữ Phạn (sanskrit), dịch sang chữ Hán
và chữ Tây Tạng. Phải nói rằng đó là một trong
những bài kinh nguyên văn chữ Phạn hiếm có còn
tồn tại, đa số những bài khác đã bị thất lạc và
chỉ còn lại dưới bản dịch sang chữ Hán và chữ
Tây Tạng.
Kinh Đại Bát Niết
Bàn Nguyên Thủy, viết bằng chữ Pali (Mahāparinibbāna-Sūtta),
là bài kinh dài nhất trong Tam Tạng kinh điển (Tipitaka),
thuộc vào Trường Bộ Kinh (Digha-nikaya). Người
ta cho rằng bản kinh ban đầu được thành hình mấy
chục năm trời sau khi đức Phật tịch diệt, bằng
tiếng Prakrit, một ngôn ngữ rất gần với tiếng
Pali, và sau đó bị nhiều đổi thay trong một, hai
thế kỷ tùy theo những nhu cầu giáo lý và tổ chức
của đoàn thể tăng già. Lời kinh được truyền khẩu
từ thế hệ này qua thế hệ khác, và chỉ được ghi
chép lại vào khoảng thế kỷ thứ 3 trước CN. Toàn
phần kinh Pali được ghi chép vào khoảng thế kỷ
thứ 1 trước CN, nhưng vẫn còn tiếp tục được
truyền khẩu nhiều năm sau.
Kinh Đại Bát Niết
Bàn Đại Thừa, nguyên văn bằng chữ Phạn (Mahā-Parinirvana-Sūtra)
thuộc vào trường phái Mula-Sarvastivada, một chi
nhánh của phái Sarvastivada (Nhất Thiết Hữu Bộ),
xuất hiện khá muộn và thất truyền từ lâu. Kinh
được dịch sang chữ Hán từ khoảng thế kỷ thứ 3
tới thứ 5 sau CN, dưới những tựa đề khác nhau (Phật
Thuyết Phương Đẳng Bát Nê Hoàn Kinh, Đại Bát Nê
Hoàn Kinh,...). Một trong những bản đó là do
Ngài Pháp Hiển sang Tích Lan mang về và dịch
cùng với Buddhabadra năm 417. Năm 421, tại miền
Bắc Trung Hoa, nhà sư Ấn Độ Dharmaksema cũng
dịch một bản kinh dài hơn, được bổ túc bằng một
số đoạn trong một bản kinh viết tay tìm thấy tại
Khotan (miền Tây Tân Cương).
Tại Tây Phương,
Kinh Đại Bát Niết Bàn đã được giới học giả đặc
biệt chú ý đến từ cuối thế kỷ 19 qua những bản
dịch từ tiếng Pali sang tiếng Anh bởi T.W.
Rhys-David (1881-1910), qua những công trình
nghiên cứu tiếng Đức của E. Waldschmidt (từ 1944
đến 51) và nhất là qua công trình nghiên cứu của
nhà Phật học Pháp André Bareau (từ 1970 đến
1975).
Trong những học
giả Tây phương, có lẽ André Bareau là người đã
có công phu nghiên cứu nhất về các bản kinh Đại
Bát Niết Bàn. Ông đem đối chiếu 7 bản kinh khác
nhau, 1 viết bằng chữ Pali, 1 bằng chữ Phạn và 5
bằng chữ Hán, soạn thảo trong những thời kỳ khác
nhau và thuộc về những trường phái khác nhau.
Về bản dịch ra
tiếng Việt, thì cũng có hai bài kinh Đại Bát
Niết Bàn, một bài dịch từ chữ Pali bởi HT Thích
Minh Châu, và một bài dịch từ chữ Hán bởi HT
Thích Trí Tịnh.
Như đã nói trên,
chúng ta nên để ý đó là hai bài kinh khác nhau,
một bài thuộc hệ thống Nguyên Thủy, và một bài
thuộc hệ thống Đại Thừa.
Tuy rằng cả hai
đều có liên quan tới giai đoạn cuối đời của đức
Phật trước khi Ngài nhập Niết Bàn, nhưng có
nhiều sự khác biệt về hình thức cũng như về nội
dung. Bài kinh Đại Thừa dài hơn bài kinh Nguyên
Thủy nhiều, vì có thêm nhiều bài kinh khác. Bản
dịch của HT Thích Trí Tịnh được in làm 2 quyển,
dầy 1500 trang, chia ra làm 29 phẩm, trong khi
bản dịch của HT Thích Minh Châu chỉ có 53 trang
A4, chia ra làm 6 phẩm. Trong kinh Nguyên Thủy,
đức Phật giảng dạy cho Ananda (A-Nan), vừa là em
họ, thị giả và đệ tử thân cận nhất của Ngài,
trong khi trong kinh Đại Thừa, đức Phật giảng
dạy cho Mahā-Kassapa (Đại Ca Diếp), là vị đại đệ
tử của Ngài. Chúng ta sẽ bàn sau về những khác
biệt về nội dung của những lời giảng dạy đó.
Trong khuôn khổ
bài này, chúng ta sẽ chủ yếu nói về Kinh Đại Bát
Niết Bàn bản Pali, vì những lý do sau: thứ nhất,
đó là bài kinh xuất hiện sớm nhất đứng về mặt
lịch sử, thứ nhì (cũng liên quan đến điểm trên),
những sự kiện lịch sử, xã hội có khả năng được
mô tả một cách trung thành nhất, và thứ ba,
những lời giảng dạy trong kinh có khả năng gần
với những lời dạy cuối cùng của đức Phật nhất.
Những hạn chế về
thông tin khách quan trong kinh
Trong Tam Tạng
kinh điển, trên nguyên tắc Kinh (Sūtra) là những
lời dạy của đức Phật. Thật ra, ai nấy đều biết
rằng đó chỉ là những lời ghi lại về lời dạy của
đức Phật.
Do đó, cũng như
đa số các bài kinh, kinh Đại Bát Niết Bàn bắt
đầu bằng: "Tôi nghe như vầy" (Pali: evam me
sūtram, Hán: Như thị ngã văn), nghĩa là lời mở
đầu của soạn giả - hay đúng hơn các soạn giả -
trước khi ghi lại những gì các người đó đã được
nghe thấy, lặp đi lặp lại nhiều lần.
Đó là một trong
những đặc điểm đáng ghi nhớ của kinh điển Pali.
Trước khi được ấn định và in lại thành kinh sách,
sớm nhất là vào khoảng thế kỷ thứ 1 trước CN,
lời kinh đã được truyền khẩu, truyền tụng, kết
tập từ thế hệ này qua thế hệ khác, và do đó
không tránh khỏi bị thêm bớt, thay đổi ít nhiều,
một cách vô tình hay cố ý. Hơn nữa, nhiều câu
được cố ý lặp đi lặp lại nhiều lần, trong mục
đích giáo dục, để được ghi nhớ, học tập cho
thuần thục bởi các tăng ni và cư sĩ.
Kinh Đại
Bát Niết Bàn Đại Thừa được phỏng dịch từ tiếng
Pali sang tiếng Phạn, rồi từ tiếng Phạn sang
tiếng Hán, cho nên lại càng có khả năng bị thay
đổi nhiều hơn nữa, với thời gian và không gian.
Do đó, như đã nói, chúng ta có thể nghĩ rằng bài
kinh Pali gần với các sự kiện lịch sử, xã hội và
với giáo lý nguyên thủy của đạo Phật hơn.
Tuy nhiên, vì
những lý do nói trên, chúng ta phải hết sức thận
trọng về những thông tin lịch sử, xã hội chứa
đựng trong kinh, cũng như nhà Phật học André
Bareau đã nhìn nhận một cách khiêm tốn: "Tất cả
chỉ là những giả thuyết, càng phải xem xét một
cách ngờ vực khi chúng càng tỏ ra táo bạo" và "Viết
về cuộc đời đức Phật là một công trình vô vọng"...
Kinh
Đại Bát Niết Bàn Pali, gồm 6 phẩm, kể lại một
cách khá tỉ mỉ chuyến đi cuối cùng của đức Phật
Thích Ca với một số đệ tử của Ngài, trong sáu
tháng trời, từ thành phố Rajagaha, thủ đô xứ
Maghada, tới Kusinara, một thị trấn nhỏ của dân
tộc Mallan, cách nhau khoảng 450 km (xem bản
đồ). Ngài đi qua những nơi như Nalanda, sau này
trở thành một trung tâm Phật học nổi tiếng,
Patali-gama (trở thành Pataliputta, thủ đô về
sau của xứ Maghada), và Vesali (thủ đô xứ Vajji)
(chú thích 3). Lúc đó, Ngài đã già yếu, ốm đau
trầm trọng, nhưng vẫn không ngừng thuyết giảng
cho tới khi Ngài diệt độ tức là nhập Bát Niết
Bàn, để lại nhục thân được hỏa táng một cách
trọng thể.
Chúng ta sẽ lần
lượt tìm hiểu về ba khía cạnh : lịch sử - xã hội,
tâm lý - tình cảm, và giáo lý - những lời dạy
cuối cùng của đức Phật.
Về bệnh tình và
sự tịch diệt của đức Phật
Lúc bấy giờ, đức
Phật đã già yếu lắm, như lời của Ngài nói với
Ananda: "Này
Ananda, ta nay đã già nua, mỏi mòn trước gánh
nặng thời gian. Ta đã tới những ngày cuối cùng
của cuộc đời, đã tám mươi tuổi rồi. Cũng như một
chiếc xe cũ kỹ chỉ còn chạy được nhờ buộc đầy
giây dựa, cơ thể của Như Lai cũng chỉ đi lại
được nhờ chữa chạy thuốc men". Trong
Tương Ưng Bộ Kinh (Samyutta-nikaya) cũng có một
đoạn đức Phật nói về sức khoẻ của Ngài: "Thật
vậy Ananda, tuổi già thay thế tuổi trẻ, bệnh tật
đẩy lui sự khoẻ mạnh, cái chết làm ngưng sự sống.
Mầu da của ta không còn tươi tốt và trong sáng
như xưa; bắp thịt chân tay ta yếu đi và da nhăn
nheo; thân thể ta nghiêng về phía trước; sự thay
đổi cũng thấy rõ trên các giác quan..."
Cuối phẩm 2, bệnh
tình của đức Phật được mô tả như sau: "Trong
khi Thế Tôn bắt đầu an cư trong mùa mưa (chú
thích 4) tại làng Beluva, gần Vesali, một cơn
bệnh trầm trọng khởi lên, làm Ngài vô cùng đau
đớn, gần như muốn chết. Nhưng Ngài
giữ tâm chánh niệm, tỉnh giác, và chịu đựng cơn
đau một cách bình thản. Rồi Ngài nghĩ: 'Thật là
không phải nếu ta nhập Bát Niết Bàn mà không báo
trước những đệ tử thân cận và nói chuyện với
đoàn thể tăng già; ta phải cố gắng trấn áp bệnh
tật, ở lại trên đời bằng cách phục hồi sức
sống'. Nhờ đó, bệnh tật của Ngài thuyên giảm
lần lần".
Tới phẩm 4, bệnh
của Ngài lại tái phát, khi Ngài cùng với đại
chúng tỳ kheo tới Pava, tại rừng xoài của người
thợ sắt Cunda. Ngài được Cunda mời cơm, và món
ăn đặc biệt chỉ riêng Ngài dùng là món
sukkaramaddava (một loại nấm mộc nhĩ mọc trên gỗ
đàn hương). "Sau đó, Thế Tôn bị nhiễm bệnh
nặng và xuất huyết, đau đớn gần như muốn chết.
Ngài vẫn chánh niệm, tỉnh giác, và chịu đựng cơn
bệnh một cách bình thản".
Trên con đường đi
tới Kusinara, Thế Tôn cảm thấy mệt mỏi và muốn
ngồi nghỉ. Ngồi dưới gốc cây, Ngài cảm thấy khát
và muốn uống nước. Uống nước xong, Ngài giảng
pháp cho Pukkusa, một hoàng tử dòng họ Mallan,
và vị này, sau khi qui y Tam bảo, cúng dường
Ngài một cặp áo mầu kim sắc. Mặc áo trên mình,
mầu da của Ngài trở nên trong suốt và sáng chói.
Sau đó,
Thế
Tôn xuống tắm sông Kakuttha, rồi cảm thấy người
mỏi mệt và nằm nghỉ, nghiêng bên tay phải, trong
tư thế sư tử. Cuối cùng (phẩm 5), Ngài đi tới
khu rừng sala của dòng họ Mallan, gần thị trấn
Kusinara, nằm xuống giữa hai cây sala lớn trong
tư thế sư tử, và tịch diệt vào canh cuối của
buổi đêm (phẩm 6).
Mặc dầu kinh
không ghi nhiều chi tiết về bệnh tình của đức
Phật, nhưng chúng ta cũng có thể phỏng đoán rằng
Ngài bị một bệnh tiêu hóa mạn tính trầm trọng,
vì chỉ có bệnh tiêu hóa mới gây nên những cơn
đau dữ dội và xuất huyết, trong những giai đoạn
cấp hóa. Tuy không thể gạt bỏ giả thuyết ung thư
ruột, nhưng có nhiều khả năng hơn đó là một bệnh
hiền tính, như loét dạ dầy - tá tràng, hay bệnh
viêm ruột xuất huyết (colite hémorragique). Bệnh
này có thể bị khởi động bởi món nấm mộc nhĩ Ngài
đã ăn, bởi vì đã có những nghiên cứu khoa học
cho biết rằng loại nấm mộc nhĩ (hay "tai mèo")
có tác dụng chống tiểu cầu và làm loãng máu, do
đó có thể gây chảy máu nơi một tổn thương tiêu
hóa. Lý do tử vong có thể là xuất huyết, gây nên
mệt mỏi, khát nước và khiến cho mầu da trở nên
lợt lạt vì thiếu máu. Cuối cùng, có khả năng là
huyết áp Ngài xuống thấp dần, gây mê man trong
khi Ngài nhập định rồi tịch diệt.
Dĩ nhiên, tất cả
những điều nói trên chỉ là sự phỏng đoán liều
lĩnh của một người thầy thuốc chỉ cầm trong tay
một bệnh án sơ sài và mơ hồ, truyền khẩu lại từ
2500 năm...
Về tang lễ của
đức Phật
Có một điều mà
chúng ta thấy rất rõ trong kinh, là đức Phật
được mọi người vô cùng kính trọng ngay trong khi
Ngài còn tại thế. Điển hình là:
- Khi nhà vua
Ajatasattu (A-Xà-Thế), xứ Maghada, lúc bấy giờ
rất hùng mạnh sau khi chinh phục được xứ Kosala,
có ý muốn dấy binh chinh phạt dân Vajjin, liền
gửi một vị đại thần tới tham vấn đức Phật (phẩm
1). Sau khi nghe đức Phật phân tích 7 lý do vì
sao dân Vajjin tiếp tục cường thịnh, không suy
đồi và không thể bị đánh bại được, nhà vua từ bỏ
ý định xâm lấn xứ Vajji. Chuyện này chứng tỏ ảnh
hưởng rộng lớn của đức Phật trên lãnh vực chính
trị, xã hội, và sự ngưỡng mộ, tin tưởng của các
vua chúa thời bấy giờ đối với Ngài.
- Đức Phật đi tới
đâu cũng được đón tiếp một cách kính trọng (chú
thích 5), như các vị đại thần Sunidha và
Vassakara xứ Maghada, các hoàng tử Licchavin,
hay những kẻ giầu có như cô Ambapali, người thợ
sắt Cunda, đều tranh nhau mời Ngài dùng cơm, với
những bữa tiệc rất thịnh soạn.
- Hai vị đại thần
trên còn nói :"Hôm nay, nếu Ngài Gotama đi ra
thành bằng cửa nào, chúng tôi sẽ gọi cửa đó là
cửa Gotama, nếu Ngài đi qua sông bằng bến nào,
chúng tôi sẽ gọi bến đó là bến Gotama" (cuối
phẩm 1).
- Sau khi Pukkusa,
một hoàng tử dòng họ Mallan, đệ tử của Alara
Kalama, thấy thái độ trầm tĩnh của Ngài với định
lực trội hơn hẳn thầy của mình, ông liền xin qui
y Tam Bảo, và cúng dường cho đức Phật một cặp áo
mầu kim sắc vàng chói (phẩm 4).
Vì vậy, chúng ta
không ngạc nhiên khi thấy tang lễ của Ngài được
cử hành một cách vô cùng trọng thể. Và cũng vì
lý do đó, tổ chức tang lễ không còn là việc của
tăng đoàn mà được giao phó cho các cư sĩ, cho
dân làng đảm nhiệm (phẩm 6).
Sau khi đức Thế
Tôn tịch diệt ở rừng cây sala, dân Mallan ở
Kusinara tụ họp nhau lại, cung kính đảnh lễ nhục
thể của Ngài, với các điệu múa, ca nhạc, tràng
hoa, và hương thơm trong suốt một tuần. Nhục thể
của Ngài sau đó được rước đi qua các cửa thành,
rồi vấn bằng năm trăm lớp loại vải mới và vải
bông, đặt vào một hòm thiếc đầy dầu, rồi trong
một hòm thiếc nữa. Cuối cùng, hòm được đặt lên
giàn lửa gồm nhiều thứ gỗ thơm và được hỏa thiêu.
Như vậy, theo các
soạn giả của Kinh, tang lễ của đức Phật không
những được cử hành một cách trọng thể, mà còn
một cách rất đặc biệt, như một Chuyển Luân Vương
(cakkavatti), hay Pháp Vương (roi universel),
ngự trị thế giới không phải bằng bạo lực hay
pháp luật, mà bằng sự đức độ và lòng từ bi.
Sự hiện diện của
Thiên chủ Sakka, của Brahma Sahampati, và nhiều
vị thần linh khác trong tang lễ của Ngài là một
điều hoàn toàn khác biệt với đạo Bà La Môn, vì
đối với đạo này nhục thể của con người là bất
tịnh và phải được tránh xa bởi các thần linh. Ý
nghĩa của sự hiện diện này là, khi một con người
đạt tới Chánh Đẳng Chánh Giác, thì vị ấy vượt
lên cả các thần linh và Brahma, và khi vị ấy
nhập Bát Niết Bàn, thì ngay cả các thần linh
cũng phải đến nơi đảnh lễ.
Điểm khác thứ nhì
là những xá lợi, di tích nhục thể của Ngài, cũng
như của các vị Phật Chánh Đẳng Chánh Giác, Phật
Độc Giác, A La Hán và Chuyển Luân Vương, sẽ được
thờ phụng trong những chiếc tháp (thupa). Đồng
thời những địa phương nơi đức Phật Thích Ca đã
ra đời, thành đạo, chuyển Pháp luân, và nhập Bát
Niết Bàn (Lumbini, Bodh-gaya, Sarnath, Kusinara)
sẽ trở thành những thánh địa, những điểm hành
hương đối với các Phật tử, đánh dấu sự khởi đầu
của một tín ngưỡng dân gian.
Ngay sau khi hỏa
thiêu, sự tranh giành xá lợi của đức Phật bởi
các vua chúa và các vị trưởng tộc trong vùng
suýt nữa gây nên một cuộc chiến lớn, nhưng nhờ
sự can thiệp khéo léo của Bà La Môn Dona, cho
nên xá lợi của Ngài được phân chia làm 8 phần
đồng đều, cộng với phần tro còn lại và chiếc
bình đựng xá lợi, tất cả thành 10 tháp được xây
và thờ cúng mỗi nơi.
Chúng ta có thể
nhận thấy rằng đức Phật Thích Ca xuất thân là
một vị thái tử thuộc hoàng tộc, sau đó sống một
cuộc đời sa môn, khất thực, và cuối cùng tịch
diệt và được hỏa táng như một Chuyển Luân Vương...
Sự cử hành tang
lễ trọng thể, cũng như sự thờ cúng xá lợi trong
bảo tháp, nhất quyết không phải là ý nguyện của
một người đã hoàn toàn giải thoát như đức Phật.
Do đó, chúng ta có thể nghĩ rằng những lời gán
cho Ngài về vấn đề này đã được các nhà soạn giả
bài kinh đưa vào cho thêm phần long trọng. Vả
lại, trong một đoạn khác, đức Phật có nói: "Này,
Ananda, không phải như vậy tức là kính trọng,
tôn sùng, đảnh lễ Như Lai. Nếu một tỳ kheo, tỳ
kheo ni, nam hay nữ cư sĩ đi theo con đường
Chánh Pháp, sống hòa hài trong Chánh Pháp, hành
trì đúng Chánh Pháp, thì người ấy kính trọng,
tôn sùng, đảnh lễ Như Lai. Đó mới là đảnh lễ tối
thượng" (phẩm 5).
Về những hiện
tượng siêu nhiên
Trong kinh, chúng
ta nhận thấy có nhiều hiện tượng siêu nhiên,
huyền diệu xẩy ra, tuy rằng không nhiều bằng
trong Kinh Đại Bát Niết Bàn Đại Thừa.
Các hiện tượng
siêu nhiên đó có thể được phân chia làm hai loại:
một là những khả năng đặc biệt, do thần thông
của đức Phật, và hai là các hiện tượng siêu
nhiên ngoài những khả năng trên.
Trong loại đầu,
chúng ta có thể liệt kê đoạn xảy ra tại
Patali-gama (Pataliputta), trong lúc hai vị đại
thần xứ Maghada đang xây thành để ngăn chận dân
Vajjin, đức Phật dùng huệ nhãn nhìn thấy hàng
ngàn vị thần linh tụ họp tại đây. Sau đó, khi
tới bờ sông Hằng vào mùa nước lớn, Ngài vụt biến
qua bên bờ kia, như người ta co duỗi cánh tay,
trong khi những kẻ khác đang tìm thuyền bè để
qua sông (phẩm 1). Và khi Ananda hỏi Ngài về hậu
thế của một số tỳ kheo, tỳ kheo ni, cư sĩ sau
khi mệnh chung, thì Ngài nhờ huệ nhãn nhìn rõ
hậu thế của từng người và trả lời một cách rành
mạch (phẩm 2). Đến khi căn bệnh của Ngài nổi lên
tại Beluva, đức Phật dùng chánh niệm, tỉnh giác
để nhiếp phục cơn đau, và duy trì mạng sống (phẩm
2). Nhưng rồi Ngài cũng quyết định, trước lời
khích dụ của Ma Vương (Mara Papima), không còn
duy trì mạng sống, và sẽ diệt độ ba tháng sau,
mặc dầu Ngài có khả năng kéo dài thọ mạng của
mình nếu được Ananda thỉnh cầu (phẩm 3).
Khi căn bệnh của
đức Phật tái phát, làm Ngài khát nước và muốn
uống nước, thì nước sông vừa bị khuấy động, vẩn
đục bỗng trở nên trong vắt. Một hiện tượng siêu
nhiên nữa xảy ra sau khi đức Phật mặc vào người
cặp áo mầu kim sắc Ngài mới được tặng: mầu da
của Ngài trở nên trong suốt và sáng chói, làm lu
mờ cả áo mầu kim sắc (phẩm 4). Và khi Ngài tới
rừng sala tại Kusinara và nằm xuống giữa hai cây
sala, thì cây trổ hoa trái mùa, gieo khắp và
tung vãi trên thân Ngài, cùng với bột chiên đàn,
và ca nhạc trên hư không nổi lên để cúng dường
Ngài (phẩm 5).
Cuối cùng, trước
khi diệt độ, Ngài nhập sơ thiền, rồi nhị thiền,
rồi tam thiền, rồi tứ thiền, rồi không vô biên
xứ, rồi thức vô biên xứ, rồi vô sở hữu xứ, rồi
phi tưởng phi phi tưởng xứ, rồi diệt thọ tưởng
định, rồi đi ngược lại một lần nữa cho tới tứ
thiền, trước khi nhập Bát Niết Bàn (phẩm 6)(chú
thích 6).
Ngay sau khi đức
Phật nhập Bát Niết Bàn, mặt đất bỗng chấn động
một cách khủng khiếp, làm lông tóc dựng ngược,
cùng với trống trời vang dội. Hiện tượng đó cũng
đã xẩy ra khi Ngài đã quyết định ba tháng trước
sẽ diệt độ và không còn duy trì mạng sống. Cùng
lúc Ngài diệt độ, Phạm Thiên (Brahma) và Thiên
chủ Sakka đều thốt lên một bài kệ, và cùng với
chư Thiên đảnh lễ Ngài.
Trong khi cử hành
tang lễ Thế Tôn (phẩm 6) cũng xẩy ra một số hiện
tượng siêu nhiên: đó là khi tám vị trưởng tộc
Mallan cố khiêng nhục thể của Ngài lên thì
khiêng lên không nổi, vì lý do chư Thiên không
muốn thân Ngài được chở ra ngoài thành về phía
Nam mà muốn chở thân Ngài về phía Bắc cửa thành,
rồi vào trung tâm, rồi vào phía Đông cửa thành.
Và khi họ châm lửa lên để hỏa thiêu thì châm lửa
không cháy, cũng vì lý do chư Thiên muốn vị đại
đệ tử Mahā-Kassapa đến cùng với đại chúng tỳ
kheo đảnh lễ Ngài trước. Đảnh lễ xong, giàn lửa
tự nhiên bốc cháy. Sau khi thân Thế Tôn đã cháy
hết, những dòng thác nước từ trên không đổ xuống
và từ dưới đất phun lên làm tắt ngay giàn lửa.
Sự có mặt của
những hiện tượng siêu nhiên, huyền diệu này
trong một bài kinh thuộc hệ thống Nguyên Thủy có
thể làm chúng ta ngạc nhiên, nhưng thật ra có
thể giảng nghĩa được một cách hợp lý bằng những
lý do sau:
- Ngay sau khi
đức Phật viên tịch, và nhất là trong những thế
kỷ sau, đã có một sự chuyển biến đáng kể xảy ra,
đó là sự xuất hiện của một tín ngưỡng dân gian,
dựa lên sự tôn thờ đức Phật qua những di tích
của Ngài nơi các bảo tháp (thupa) và thánh địa.
Một dấu hiệu tiêu biểu là tang lễ của Ngài được
cử hành không phải bởi tăng đoàn mà bởi các cư
sĩ.
- Do đó chúng ta
có thể phỏng đoán rằng những hiện tượng siêu
nhiên, mầu nhiệm đã được ghi thêm, thêu dệt bởi
các soạn giả của bài kinh, trong mục đích làm
gia tăng sự sùng kính, tín ngưỡng đó, đồng thời
để đối phó với đối thủ đương thời, là đạo Bà La
Môn.
- Chúng ta cũng
có thể nhìn những hiện tượng siêu nhiên đó như
là những hình ảnh biểu tượng, tức là dùng theo
nghĩa bóng. Chẳng hạn như khi đức Phật vụt biến
qua bên bờ kia sông Hằng, trong khi những kẻ
khác đang tìm thuyền bè để qua sông, thì như lời
Ngài nói kệ (cuối phẩm 1):
"Những ai đã
bắc cầu, đi qua dòng nước lũ tham ái,
Tránh đất sũng
đầm ao, đạt được giải thoát.
Trong khi những
người phàm phu đang cột bè,
Để vượt qua dòng
sông nhỏ,
Thì những bậc trí
tuệ, đã qua dòng nước lũ tham ái,
Vượt qua dòng
sông nhỏ dễ dàng".
Và khi một người
như đức Phật đạt Chánh Đẳng Chánh Giác, hay nhập
Niết Bàn, ức kiếp mới có một lần, thì chẳng phải
là một điều kinh thiên động địa, khiến đất trời
rung chuyển, tất cả thế giới mười phương đều
phải đảnh lễ đó ư? Hình ảnh hoa sala nở rộ trái
mùa, gieo khắp và tung vãi trên thân Ngài, cùng
với bột chiên đàn, và ca nhạc trên hư không nổi
dậy, phải chăng chỉ là biểu tượng của sự đảnh lễ
của thiên nhiên đối với một bậc trí tuệ siêu
phàm đã vượt lên trên tất cả, trời người?
Về mặt tâm lý,
tình cảm
Kinh Đại Bát Niết
Bàn có lẽ là bài kinh nặng về tình cảm và có
tính chất "người" nhất, vì gây nhiều cảm xúc cho
người đọc, và mang nặng nghĩa thầy trò, lòng
nhân ái. Có những đoạn làm người đọc bỗng dưng
cảm thấy nghẹn ngào, rưng rưng nước mắt, thậm
chí khóc sướt mướt!
Khi thấy vị thầy
thương kính của mình già nua, bệnh tật, chịu
đựng cơn đau không hề ta thán, Ananda, người đệ
tử thân cận của đức Phật, tới thăm Ngài và nói:
"Con thấy đức Thế Tôn đã khoẻ mạnh hơn. Nhưng
khi con thấy đức Thế Tôn bị bệnh, con cảm thấy
người yếu đuối như một cành giây leo. Đối với
con, hướng đi không sáng tỏ và tất cả đều đen
tối" (phẩm 2).
Và khi Ananda
thấy sức khoẻ của vị thầy mình sa sút dần đi,
ông đi vào tịnh xá, dựa lên cột cửa và đứng khóc:
"Ta hãy còn là một kẻ sơ học, còn nhiều điều
phải tu tập. Vị thầy kính thương của ta sắp sửa
nhập Bát Niết Bàn. Rồi đây, sẽ không còn ai
hướng dẫn ta nữa!" (phẩm 5). Đức Phật được
biết, liền cho người đi gọi người thị giả thân
thiết đó, và vỗ về an ủi ông: "Thôi, Ananda,
đừng có buồn rầu, than khóc. Đã biết bao lần, ta
đã chẳng nói cho ngươi rằng tất cả những gì đáng
quý, tốt đẹp đều phải đổi thay, đều phải hư hoại,
đều phải hủy diệt ư? Làm thế nào có thể khác
được, Ananda? Cái gì đã sanh ra, hiện hữu, hữu
vi, là có tính chất vô thường, vậy thì làm sao
có trường hợp mà người ta có thể ước mong rằng:
"Cái đó sẽ ở luôn như vậy, và không bao giờ biến
mất?". Sau đó, Đức Phật tán thán công đức và
ca ngợi các đức tính của người thị giả: "Hãy
can đảm lên, Ananda, không bao lâu nữa ngươi sẽ
tự giải thoát khỏi các lậu hoặc".
Như trong mọi
tang lễ, có nhiều người than khóc sau khi đức
Phật nhập Bát Niết Bàn (phẩm 6). Có những Tỳ
kheo và cư sĩ khóc than, vật vã thân hình hay
lăn qua lộn lại: "Thế Tôn diệt độ quá sớm!
Thiện Thệ diệt độ quá sớm! Con Mắt thế gian (dhamma
cakku) biến mất quá sớm!" Đó là những người
chưa nhổ được rễ tham ái (avitaraga), còn những
người đã nhổ được rễ tham ái (vitaraga) thì an
trú trong chánh niệm, tỉnh giác và tự nhủ: "Các
hành là vô thường. Làm sao tránh khỏi điều đó?"
Điều cảm
động và đáng chú ý nữa trong kinh là sự ân cần,
tận tụy của một người thầy đối với đệ tử của
mình. Mặc dầu đức Phật đã già nua, đau ốm, Ngài
đã không quản mệt nhọc, khó khăn, đi trên một
quãng đường dài 450 km, trong 6 tháng trời, qua
15 địa phương lớn nhỏ, không ngừng thuyết giảng,
ngay cả khi Ngài cảm thấy trong người mệt mỏi
hay vừa thoát khỏi cơn trọng bệnh. Tới những
giây phút cuối cùng, khi bệnh tình đã trầm
trọng, Ngài còn cố gắng trả lời những câu hỏi
của Bà La Môn Subhadda, rồi thu nhận ông làm
người đệ tử cuối cùng, sẽ trở thành A La Hán
(phẩm 6).
Đặc biệt nhất là
Ngài đã tận dụng những giây phút cuối cùng để
giảng giải cho những người trong đại chúng tỳ
kheo còn đôi chút nghi vấn (phẩm 6): "Này các
tỳ kheo! Có thể có, ít ra một người, còn nghi
ngờ hay phân vân về Phật, Pháp, Tăng, đạo (magga)
hay phương pháp (patipada). Vậy các người hãy
đặt câu hỏi đi. Để sau này đừng có hối tiếc rằng:
'Đạo sư đứng trước mặt chúng ta, mà chúng ta đã
không hỏi thẳng được Ngài'." Chúng tỳ kheo
nghe xong giữ im lặng. Sau khi đức Phật nhắc lại
lần thứ hai, rồi lần thứ ba, chúng tỳ kheo vẫn
giữ im lặng, Ngài liền nói: "Có thể các người
không đặt câu hỏi vì kính trọng đạo sư. Trong
trường hợp đó, hãy nhờ một người bạn đồng tu đặt
lên câu hỏi". Chúng tỳ kheo vẫn giữ im lặng.
Như vậy,
kinh cho ta thấy đức Phật trước hết là một vị
thầy, một đạo sư ân cần, tận tụy, thương yêu và
gần gũi đệ tử của mình. Ngài cũng đầy lòng nhân
ái, khi căn dặn Ananda phải làm cho người thợ
sắt Cunda tiêu tan hối hận, vì đã mời Thế Tôn ăn
nấm mộc nhĩ gây trọng bệnh, khiến cho Ngài
diệt độ (cuối phẩm 4).
Về mặt giáo lý
Kinh Đại Bát Niết
Bàn chứa đựng một cách vắn tắt và đầy đủ giáo lý
căn bản của đạo Phật, qua những bài thuyết giảng
của đức Phật Thích Ca cho các tỳ kheo đi cùng
với Ngài, hay nhân những buổi tụ họp các tỳ kheo
và cư sĩ địa phương. Kinh cũng là sự tập hợp của
nhiều đoạn kinh trong các bài kinh khác, chẳng
hạn như có những đoạn tương tự trong Tương Ưng
Bộ (Samyutta-nikaya) và Tăng Chi Bộ kinh (Anguttara-nikaya).
Điều được đức
Phật nhiều lần nhắc tới là Giới (sila), Định (samadhi),
Huệ (pañña), ba cái học đưa tới vô lậu: "Đây
là Giới, đây là Định, đây là Huệ. Định sẽ đem
tới kết quả và ích lợi lớn nếu phát triển với
Giới, Huệ sẽ đem tới kết quả và ích lợi lớn nếu
phát triển với Định. Tâm phát triển với Huệ sẽ
giải thoát khỏi các lậu hoặc (asava), tức là dục
lậu (kamasava), hữu lậu (bhavasava), tri kiến
lậu (ditthasava) và vô minh lậu (avijjasava)"(chú
thích 7)
Ngài cũng nhắc
lại lý do vì sao con người mãi bị trói buộc
trong vòng luân hồi (sansara). Đó là vì không
hiểu rõ bốn sự thật là: khổ (dukkha), nguyên
nhân của khổ, sự diệt khổ và con đường diệt khổ
(phẩm 2).
Và với tăng chúng
sống ở gần Vesali, Ngài còn nói về 37 phẩm trợ
đạo (bodhipakkhiya-dhamma)(chú thích 8), là
những pháp Ngài đã chứng ngộ và giảng dạy, và
khuyên họ phải học hỏi, thực hành, trau dồi và
phát triển (cuối phẩm 3).
Ngài đặc biệt
nhấn mạnh vào tầm quan trọng của 4 niệm xứ, khi
nói với Ananda (cuối phẩm 2): "Này
Ananda, hãy tự mình làm hòn đảo (dipa)(chú thích
9) cho mình, làm nơi nương tựa cho chính mình,
không nương tựa vào ai khác. Hãy lấy Chánh Pháp
làm hòn đảo cho mình, làm nơi nương tựa cho
chính mình, không nương tựa vào nơi nào khác.
Bằng cách nào một vị tỳ kheo làm được như vậy,
Ananda? Đối với thân, vị ấy quán thân, đối với
thọ, vị ấy quán thọ, đối với tâm, vị ấy quán
tâm, đối với pháp, vị ấy quán pháp, sống tinh
tấn, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục được mọi
tham ái, sân si trên đời. Này Ananda, những ai
tự mình làm hòn đảo cho mình, lấy Chánh Pháp làm
hòn đảo cho mình, làm nơi nương tựa cho chính
mình, không nương tựa vào nơi nào khác, những vị
tỳ kheo tinh tấn ấy, ngay bây giờ và sau khi ta
diệt độ, sẽ là những vị tối thượng trong hàng tỳ
kheo của ta".
Trong một đoạn
nữa, chúng ta tưởng chừng như nghe lại lời
khuyên của đức Phật cho dân làng Kalama (phẩm
4): "Này các tỳ kheo, tỉ dụ như có một vị tỳ
kheo nói: 'Tôi nghe từ chính miệng Thế Tôn, học
hỏi được từ Thế Tôn, hay từ một tỳ kheo Thượng
tọa. Đây là Pháp, đây là Luật, đây là lời dạy
của đạo sư', thì các người không nên chấp nhận,
cũng không nên bác bỏ ngay những lời đó, mà phải
học hỏi kỹ lưỡng, so sánh, đối chiếu với Kinh,
Luật. Nếu thấy phù hợp với Kinh, Luật thì hãy
đón nhận, nếu không thì hãy bác bỏ lời của vị tỳ
kheo đó".
Nhưng đặc điểm,
thông điệp quan trọng nhất về giáo lý trong Kinh
Đại Bát Niết Bàn, có lẽ là tính chất vô thường (aniccata)
của mọi pháp hữu vi. Tất cả những sự kiện xảy ra,
những điều được mô tả trong kinh đều chứa đựng
bàng bạc giáo lý vô thường đó: sự già yếu, bệnh
tật của đức Phật, và cuối cùng sự tịch diệt của
Ngài, cũng như tất cả những gì hiện hữu.
Chúng ta hãy nhớ
đến những lời nói cuối cùng của đức Phật: "Tất
cả những pháp hữu vi đều vô thường. Các người
hãy tinh tấn, đừng có xao lãng" (phẩm 2).
Và cùng với khi
Ngài diệt độ, Thiên chủ Sakka thốt lên bài kệ:
"Các hành là
vô thường,
Có hiện phải có
hoại.
Chúng tự sanh tự
diệt.
An tịch là hạnh
phúc."
Giáo lý trong
Kinh Đại Bát Niết Bàn Đại Thừa
Những khác biệt
của hai bài kinh Nguyên Thủy và Đại Thừa chủ yếu
nằm trong giáo lý. Trong khi kinh Nguyên Thủy
trình bày giáo lý căn bản của đạo Phật, với "
Giới, Định, Huệ, 4 sự thật, 8 chánh đạo, 4 niệm
xứ" v.v., thì kinh Đại Thừa lại nhấn mạnh vào
khái niệm "Thường, Lạc, Ngã, Tịnh".
Trong kinh này,
đức Phật giải thích cặn kẽ về Chân Ngã hay Phật
Tánh hay Như Lai Tánh, là bản thể thanh tịnh
thường hằng bất biến của tất cả mọi chúng sinh,
vượt ra khỏi tư tưởng suy nghĩ thông thường, nhị
nguyên tương đối. Bản thể ấy luôn luôn tĩnh tịch
hiện tiền, tràn ngập khắp nơi, nhưng chúng sinh
bị trói buộc vì phiền não, tham sân si, ô nhiễm
che mờ nên không thấy được (phẩm Kim Cang Thân
thứ 5 và Phẩm Như Lai Tánh thứ 12).
Ngoài ra, đức
Phật còn dạy rằng tứ chúng Phật tử (gồm Tỳ Kheo,
Tỳ Kheo ni, nam Cư sĩ và nữ Cư sĩ) đều phải có
nhiệm vụ hộ trì chánh pháp, nghĩa là giữ gìn sao
cho chánh pháp khỏi bị mang tiếng oan vì những
người phá giới, khiến cho người đời mất niềm
tin, mất cơ hội thấm nhuần Phật pháp. Như vậy,
chữ Tăng ở câu kính Phật trọng Tăng phải hiểu
nghĩa là thanh tịnh Tăng (chú thích 10).
Về vấn đề đức
Thích Ca sơ sinh bước bẩy bước và nói "Thiên
thượng Thiên hạ duy Ngã độc tôn", Ngài cũng nói
rõ rằng Ngã đây chính là Như Lai, là Chân Tâm,
Phật Tánh, là thân Kim Cang bất hoại, chứ không
phải là Ngã của Thái Tử Tất Đạt Đa (phẩm Tứ
Tướng thứ 7).
Cuối cùng, đức
Phật còn dặn rằng vì phương tiện tùy căn cơ
chúng sanh và tùy thời cơ, nên đôi khi Ngài phải
dạy một cách giản lược, không được rốt ráo, và
gọi những kinh này là kinh bất liễu nghĩa. Vậy
chúng sinh phải y chỉ kinh liễu nghĩa, nghĩa là
thấu hiểu mục tiêu tối hậu của kinh, tức là Phật
Tánh của chúng sinh, bằng trí huệ Bát Nhã (phẩm
Tứ Y thứ 8).
Như vậy, chúng ta
nhận thấy rằng tuy cùng dựa lên sự kiện chính là
sự diệt độ của đức Phật, nhưng giáo lý của kinh
Đại Bát Niết Bàn Đại Thừa gần với những kinh Đại
Thừa khác, như kinh Pháp Hoa, hơn là với giáo lý
của kinh Đại Bát Niết Bàn Nguyên Thủy.
Về tổ chức tăng
đoàn
Trước khi đức
Phật viên tịch, sự lo lắng của tăng đoàn được
diễn tả bởi câu hỏi của Ananda khi thấy đức Phật
vừa qua khỏi cơn bệnh: "Đối với con, hướng đi
không sáng tỏ và tất cả đều đen tối. Nhưng dù
sao, con cũng tự an ủi rằng đức Thế Tôn sẽ không
nhập Niết Bàn trước khi cho chỉ thị cho đoàn thể
tăng già" (phẩm 2).
Đức Phật liền trả
lời: "Ananda,
ngươi còn chờ đợi gì ở ta nữa cho đoàn thể tăng
già? Trong khi dạy đạo Pháp, ta không hề phân
biệt những gì bí truyền và những gì không bí
truyền. Lời dạy của Như Lai không như bàn tay
nắm chặt của người thầy (acariya-mutthi)(chú
thích 11). Và Như Lai không bao giờ nghĩ: 'ta
điều khiển đoàn thể tăng già' hay 'đoàn thể tăng
già phụ thuộc vào ta'. Vậy thì, Ananda, có lý do
nào Như Lai cho chỉ thị cho đoàn thể tăng
già?"
Như vậy, rõ ràng
là đức Phật không có người tiếp nối để điều
khiển tăng đoàn, hoặc vì Ngài không muốn hoặc vì
không ai có khả năng giữ trọng trách này. Trong
các đại đệ tử của Ngài, người có trí tuệ và tài
năng tổ chức nhất là Sariputta (Xá Lợi Phất),
nhưng lớn tuổi hơn Ngài và đã diệt độ từ 6 tháng
trước. Người thứ hai là Moggallana (Mục Kiền
Liên) thì đã bị tử thương từ lâu. Chỉ còn
Mahā-Kassapa (Đại Ca Diếp) là người được tôn
trọng nhất, được chỉ định để dẫn đầu đại chúng
tỳ kheo tới đảnh lễ nhục thể Thế Tôn. Ông cũng
là người chủ trì Đại hội Kết tập lần thứ nhất
tại Rajagaha vài tháng sau đức Phật diệt độ (chú
thích 12). Sự cần thiết kết tập những lời Phật
dạy trở nên cấp bách khi những dấu hiệu chia rẽ
tăng đoàn bắt đầu xuất hiện. Ngay sau khi đức
Phật diệt độ, Subhadda, một tỳ kheo xuất gia khi
đã lớn tuổi, lớn tiếng tuyên bố: "Thôi, các
bằng hữu, đừng có sầu não, khóc than. Chúng ta
đã được hoàn toàn giải thoát khỏi vị đại Sa môn
này. Trước đây, chúng ta bị phiền hà bởi những ý
nghĩ như 'làm thế này là phải, làm thế này là
không phải',v.v. Bây giờ, chúng ta làm được
những gì ta muốn làm, không phải làm những gì ta
không muốn làm."(phẩm 6).
Trong những lời
căn dặn cuối cùng của đức Phật về tăng đoàn, có
hai câu đáng được chú ý:
1- "Sau
khi ta ra đi, Ananda, nếu Tăng đoàn muốn, có thể
bỏ được trong giới luật những điều nhỏ nhặt,
không đáng kể". Nhưng khi Mahā-Kassapa
và các đại đệ tử khác hỏi Ananda đó là những
điều nhỏ nhặt, không đáng kể nào, thì người thị
giả không biết trả lời ra sao, vì lý do lúc đó
đức Phật vô cùng mệt nhọc nên không tiện gặn hỏi.
Mahā-Kassapa và các đại đệ tử khác liền khiển
trách Ananda về việc đó, cũng như về việc đã
không năn nỉ đức Phật ở lại thế gian thêm một
thời gian nữa. Ananda cũng được coi như chưa dứt
khỏi mọi lậu hoặc, chưa đạt được thánh quả A La
Hán, nên phải trở về gấp rút tu học để có thể
tham dự Đại hội Kết tập cùng với 500 vị đệ tử A
La Hán khác.
2 - "Đến
tận bây giờ, các người gọi nhau bằng 'huynh đệ',
nhưng sau khi ta ra đi, không thể tiếp tục như
vậy nữa. Một tỳ kheo lớn tuổi phải gọi tỳ kheo
trẻ tuổi là 'huynh đệ' hay 'bằng hữu', nhưng một
tỳ kheo trẻ tuổi phải gọi tỳ kheo lớn tuổi là
'Đại Đức' hay 'Thượng Tọa'." Câu đó cho
ta biết rằng thời đức Phật còn tại thế, không có
phân chia cấp bậc trong tăng đoàn như sau này,
và sở dĩ có sự phân chia cấp bậc đó cũng là do
sự cần thiết của một tổ chức tăng đoàn vững chắc
với một sự phân chia cấp bậc rõ ràng. Rất có thể
là câu này đã được gán cho đức Phật bởi các soạn
giả của bài kinh.
Thái độ của đức
Phật đối với phụ nữ
Trong kinh, có
một đoạn trao đổi giữa Ananda và đức Phật,
thường được dùng để trình bầy thái độ của đạo
Phật đối với phụ nữ (phẩm 5):
- Bạch Thế Tôn,
chúng ta phải cư xử thế nào đối với phụ nữ?
- Này Ananda, hãy
tránh nhìn theo họ.
- Nhưng Thế Tôn,
nếu chúng ta nhìn thấy họ, thì phải làm thế nào?
- Này Ananda, hãy
tránh nói chuyện với họ.
- Bạch Thế Tôn,
nếu chúng ta phải nói chuyện với họ, thì phải
làm sao?
- Này Ananda, nếu
nói chuyện, thì phải đề phòng, cảnh giác.
Điều lạ lùng là
vấn đề đặt ra không ăn nhằm gì với những câu
chuyện trước và sau (như về các thánh địa, cách
xử sự với nhục thể Như Lai), dường như đoạn này
đã được thêm vào một cách gượng gạo.
Có người
giải thích những lời khuyên trên của đức Phật,
bằng cách cho rằng chúng chỉ dành riêng cho
Ananda, một tăng sĩ đẹp trai, đa cảm, dễ thương,
được các tỳ kheo ni mến chuộng, và luôn luôn sẵn
sàng giúp đỡ các tăng đoàn ni. Có thể đức Phật
trả lời như vậy là để cảnh giác ông, khuyên ông
tránh xa phái nữ, để giữ gìn hạnh tu và khỏi
phạm vào sắc giới.
Nhưng xét kỹ ra,
giải thích này không ổn thỏa chút nào, bởi vì
lúc bấy giờ Ananda đã quá già (ông sanh cùng
ngày với đức Phật), cho nên về mặt sinh lý cũng
như về mặt tâm linh (ông đã gần đạt được thánh
quả A La Hán), làm sao ông còn có thể bị lôi
cuốn bởi sắc dục?
Đoạn trao đổi này
chắc hẳn là đã được "dàn xếp" bởi các soạn giả
của bài kinh, để nhắc nhở lại cho các tỳ kheo
những thế hệ sau phải tự đề phòng, cảnh giác
trước sự quyến rũ của phái nữ.
Thật ra, đức Phật
đối với phụ nữ có một tinh thần hoàn toàn bình
đẳng, không khinh khi, không kỳ thị, ngược lại
rất tôn trọng phụ nữ và xem họ như những người
có khả năng giác ngộ không khác gì nam nhi. Bằng
chứng là hai đoạn trong kinh:
1. Khi Ananda hỏi
đức Phật về hậu thế của một số tỳ kheo, tỳ kheo
ni, cư sĩ nam, cư sĩ nữ (phẩm 2), thì đức Phật
cho biết: "...Tỳ kheo ni Nanda đã diệt trừ
năm hạ phần kiết sử, và do đó đã hóa sanh và sẽ
nhập Niết Bàn, vì không còn phải trở lại đời này
nữa (anagami). Nam cư sĩ Sudatta đã diệt trừ ba
hạ phần kiết sử, và giảm thiểu tham, sân, si,
như vậy đã chứng quả Nhất Lai (sadakagami), chỉ
trở lại đời này một lần nữa và sẽ tận diệt được
khổ đau. Nữ cư sĩ Sujata đã diệt trừ ba kiết sử,
do đó đã chứng quả Dự Lưu (sotapatti), sẽ không
tái sinh vào ác đạo, và sẽ đạt được Chánh Giác.
Các cư sĩ Kakudha, Kalinga, Nikata, Katissabha,
Tuttha, Santuttha, Bhadda và Subhadda đã diệt
trừ năm hạ phần kiết sử, như vậy đã hóa sanh
không trở lại đời này nữa, và từ đó sẽ nhập Bát
Niết Bàn..."(chú thích 13). Như vậy, đứng về
mặt tu chứng không có một sự khác biệt gì giữa
nam và nữ, giữa tăng sĩ và cư sĩ, đó là một điều
quan trọng phải nhấn mạnh trong đạo Phật.
2. Khi dâm
nữ Ambapali (đúng hơn là một kỷ nữ [courtisane],
một người gái điếm hạng sang) (chú thích 14) mời
đức Phật cùng với một nhóm tỳ kheo tới dùng cơm
ngày hôm sau (phẩm 2), thì đức Phật không chấp
vào điều cô là một kỷ nữ và nhận lời mời của cô.
Ngay cả khi các hoàng tử Licchavin đích thân tới
mời Ngài dùng cơm cùng ngày đó, Ngài cũng từ
chối vì đã có lời nhận trước. Đối với Ngài, việc
cô Ambapali là một kỷ nữ không có gì quan trọng,
cái chính là cô là một người có thành tâm hướng
về Chánh Pháp. Câu chuyện này chứng tỏ tinh
thần bình đẳng, không chấp trước, coi trọng
người phụ nữ của đức Phật.
Kết luận
Như chúng ta đã
thấy, Kinh Đại Bát Niết Bàn là một bài kinh rất
phong phú và đa dạng, bao gồm cả ba khía cạnh:
lịch sử, tình cảm và giáo lý. Kinh giúp chúng ta
học hỏi rất nhiều về những sự kiện lịch sử - xã
hội chung quanh sự diệt độ của đức Phật Thích
Ca, về những lời dạy cuối cùng của Ngài, cũng
như về sự chuyển biến nhanh chóng của đạo Phật,
từ một con đường tu học tới một tín ngưỡng dân
gian, rất sớm ngay sau khi đức Phật nhập Bát
Niết Bàn.
Trong kinh, có
những chi tiết giàu về tình cảm, rất "người",
đồng thời có những hiện tượng siêu nhiên, mầu
nhiệm, được thêm vào bởi các soạn giả đời sau,
để khơi dạy niềm tin hoặc mang tính chất biểu
tượng.
Thiết tưởng chúng
ta không nên để tâm vào những khía cạnh siêu
nhiên đó, mà chỉ nên ghi nhớ những bài học căn
bản, thực tiễn, có mặt trong suốt bài kinh, tức
là: tính chất vô thường của mọi hiện tượng, và
sự cần thiết chuyên cần tu học theo Giới, Định,
Huệ, là con đường giải thoát vạch ra bởi đức
Phật.
Kinh có thể được
tóm tắt bằng bài kệ Ngài nói, vào cuối phẩm 3:
"Tuổi ta đã
già,
Cuộc sống nay chấm dứt.
Các người ở lại, ta sắp ra đi.
Sẵn sàng trú ẩn nơi mình.
Hỡi các tỳ kheo!
Hãy chánh niệm, tỉnh giác,
Trì giới, định tâm, nhiếp ý.
Ai tinh tấn trong Pháp và Luật này,
Sẽ lìa vòng
sanh tử, chấm dứt khổ đau".
Trịnh
Nguyên Phước
Chú thích:
1) Trong kinh Pali có nói về 3 loại người đạt
được giác ngộ hoàn toàn (bodhi), là : Phật Chánh
Đẳng Chánh Giác (samma sambuddha, đạt được
sambodhi), Phật Độc Giác, hay Duyên Giác, hay
Bích Chi Phật (pacceka-buddha, đạt được
pacceka-bodhi) và A La Hán hay Thanh Văn (arahant,
đạt được savaka-bodhi). A La Hán hay Thanh Văn
là người đã nghe, hiểu, tu theo Chánh Pháp giảng
bởi đức Phật, và đã tự giải thoát khỏi mọi lậu
hoặc, kiết sử và đạt được giác ngộ. Phật Độc
Giác là người đã tự mình tìm ra con đường giải
thoát, tự mình đạt được giác ngộ, nhưng không
giảng dạy được cho thế gian con đường đó, không
có đệ tử, vì vậy cho nên gọi là Độc giác (éveillé
solitaire). Phật Chánh Đẳng Chánh Giác (éveillé
parfait) là người đã tự mình tìm ra con đường
giải thoát, giác ngộ, và có khả năng truyền bá
được con đường đó cho thế gian. Những vị Phật đó
trong ức kiếp mới có được một người.
2) Chữ " Nguyên thủy "(originel) trong đạo Phật
vẫn còn gây nhiều ngộ nhận. Để tránh chữ " Phật
giáo Tiểu thừa "(Hinayana), có tính chất chê bai,
người ta thường dùng chữ " Phật giáo Nguyên thủy
" để chỉ định ngành Theravada, là đạo Phật vẫn
thịnh hành tại các nước Đông Nam Á như Tích Lan,
Miến Điện, Thái Lan, miền Nam Việt Nam, v.v.
Thật ra, Theravada tiếng pali (Sthaviravada
tiếng sanskrit) có nghĩa là " trường phái của
những người lớn tuổi, trưởng lão "(Ecole des
Anciens), chỉ xuất hiện khi đạo Phật bắt đầu
phân chia ra làm hai bộ phái : Theravada (Trưởng
Lão Bộ) và Mahāsanghika (Đại Chúng Bộ), sau Đại
hội Kết tập lần thứ hai tại Vesali (xem bài "
Thử tìm hiểu về sự xuất hiện của Đại Thừa trong
lịch sử Phật giáo, Trịnh Nguyên Phước, http://cusi.free.fr/lsp/lsp0050.htm
"). Theravada còn phân chia ra thành nhiều
trường phái nữa, trước khi trở thành Theravada
cố định cho tới ngày hôm nay. Do đó, để tránh
mọi ngộ nhận, chúng ta nên gọi đạo Phật từ lúc
hình thành cho tới khoảng 2 thế kỷ sau là " đạo
Phật nguồn gốc " (originel) hoặc " đạo Phật cổ
xưa " hay " sơ khởi "(primitif), thay vì " đạo
Phật Nguyên thủy ", dành riêng cho Theravada
ngày hôm nay.
3) Hành trình cuộc đời đức Phật Thích Ca : sau
khi rời thành Kapilavatthu, Ngài đi qua xứ
Kosala (thủ đô là Savatthi) và tới xứ Maghada (thủ
đô trước là Rajagaha, sau là Pataliputta) tìm
thầy học đạo. Sau khi giác ngộ tại Bodh-gaya, và
chuyển pháp luân tại Sarnath, Ngài trở lại sống
tại Rajagaha trong những năm đầu tiên. Kế tiếp,
Ngài lấy Savatthi làm trung tâm hoạt động của
mình (do đó, Ngài được xem như người dân xứ
Kosala). Sau khi Ngài nhập Bát Niết Bàn, vai trò
trung tâm Phật giáo lại trở về với Rajagaha. Về
chuyến đi cuối cùng của đức Phật, nhìn kỹ bản đồ
chúng ta sẽ thấy ngay rằng Kusinara nằm trên con
đường hướng về Kapilavatthu (chỉ còn cách nhau
khoảng 200 km), khiến chúng ta không tránh khỏi
tự hỏi : phải chăng đức Phật đã muốn trở về viên
tịch tại quê hương của mình ?
4) Về thời điểm : mùa mưa tại Ấn Độ xẩy ra trong
những tháng 9, 10 và 11. Vào đầu bài kinh, chúng
ta được biết Ananda đứng sau đức Phật và quạt
cho Ngài, như vậy có nghĩa là đang vào mùa hè.
Ngài tới Vesali vào đầu mùa mưa, tức là khoảng
tháng 9. Như vậy, thì phải khởi hành từ Rajagaha
khoảng 2 - 3 tháng trước (tháng 6 - 7), vì con
đường tới Vesali khá xa. Khi Ngài diệt độ tại
Kusinara, hoa sala nở trái mùa, tức là vào mùa
đông, khoảng 3 tháng sau khi Ngài đã quyết định,
tức là tháng 12. Như vậy thì cuộc hành trình của
đức Phật có thể ước lượng kéo dài khoảng 5 - 6
tháng.
5) Thật ra, trong 45 năm đức Phật thuyết giảng,
không phải lúc nào Ngài cũng được đón tiếp nồng
hậu. Vì giáo lý của Ngài đi ngược lại với Bà La
Môn giáo, cho nên nhiều người Bà La Môn ghét bỏ
Ngài. Có hôm Ngài bị mắng chửi thậm tệ, có hôm
Ngài không nhận được thức ăn khi đi khất thực
tại một làng Bà La Môn, thậm chí có hôm dân
chúng trong làng lấp lại tất cả các giếng nước
để phản đối việc Ngài tới thuyết giảng.
6) Sau 4 trạng thái hay mức độ Thiền (jhana,
absorptions) trong sắc giới (rupavacara, sphère
des formes matérielles), thì tới 4 xứ(ayatana,
recueillements) trong vô sắc giới (arupavacara,
sphère des formes non matérielles), là : không
vô biên xứ (akasanancayatana, sphère des espaces
infinis), thức vô biên xứ (vinnanancaytana,
sphère de la conscience infinie), vô sở hữu xứ (akincannayatana,
sphère du néant), phi tưởng phi phi tưởng xứ (nevasanna-nassanayatana,
sphère sans perception ni non-perception). Có
nơi không phân chia ra như vậy, mà coi 4 xứ
trong vô sắc giới là sự chuyển tiếp sau mức độ
thứ 4 của Thiền. Tuy nhiên, jhana cũng như
ayatana, đều không phải những giai đoạn cốt yếu
để đạt được Niết Bàn.
7) Những điều cản trở trên con đường tu học gồm
có : 4 lậu hoặc(asava, écoulements mentaux
toxiques) là dục lậu (kamasava, désir), hữu lậu
(bhavasava, devenir), tri kiến lậu (ditthasava,
opinions) và vô minh lậu (avijjasava, ignorance)
; 5 triền cái (pañca nivarana, entraves) là tham
ái (kammachanda, convoitise sensuelle), sân hận
(vyapada, malveillance), hôn trầm (thinamiddha,
torpeur langueur), trạo cử (uddhaccakukkucca,
inquiétude agitation), nghi ngờ (vicikiccha,
doute) ; 10 kiết sử (kilesa, souillures mentales),
chia ra làm 5 hạ phần kiết sử (orambhagiya
samyojana, liens inférieurs) là tà kiến (sakkaya
ditthi, vue fausse de la personnalité), nghi ngờ
(vicikiccha, doute), giới cấm thủ (silabbata
paramasa, attachement aux préceptes), ái dục (kamaraga,
désir pour le plaisir des sens), ghét hận (patigha,
aversion), và 5 thượng phần kiết
sử(uddhambhagiya samyojana, liens supérieurs) là
sắc tham (rupa raga, désir d'existence des
formes subtiles), vô sắc tham (arupa raga, désir
d'existence sans forme), kiêu mạn (mana, orgueil),
trạo cử (uddhacca, inquiétude), vô minh (avijja,
ignorance).
8) 37 phẩm trợ đạo (bodhipakkhiya-dhamma), bao
gồm cả giáo pháp của đức Phật, là những yếu tố
đưa tới giác ngộ. Chúng được chia ra làm 7 nhóm
: 4 niệm xứ (cattaro satipatthana, bases de
l'attention) là quán thân (kaye kayanupassi,
observer le corps), quán thọ (vedanasu
vedananupassi, observer les sensations), quán
tâm (citte cittanupassi, observer la pensée),
quán pháp (dhamme dhammanupassi, observer les
objets mentaux) ; 4 chánh cần (sammappadhana,
efforts corrects) là tinh tấn không cho các pháp
bất thiện chưa sanh được khởi sanh (samvara),
tinh tấn đoạn diệt các pháp bất thiện đã sanh (pahana),
tinh tấn làm khởi sanh các pháp thiện chưa sanh
(bhavana), tinh tấn phát huy các pháp thiện đã
sanh (anurakkhana) ; 4 thần túc (iddhipada,
bases de puissance surnaturelle) là dục (chanda,
intention), tâm (citta, pensée), tinh tấn (viriya,
effort), trạch (vimansa, investigation) ; 5 lực
(pañca bala, forces) cũng là 5 căn(pañca indriya,
facultés), là tín (saddha, foi de confiance),
tinh tấn (viriya, effort), niệm (sati,
attention), định (samadhi, concentration), huệ (pañña,
sagesse profonde) ; 7 Bồ Đề phần (satta
bojjhanga, facteurs d'éveil) là niệm (sati,
attention), trạch pháp (dhamma-vicaya, analyse
des choses), tinh tấn (viriya, effort), hỉ (piti,
joie), khinh an (passaddhi, sérénité), định (samadhi,
concentration), xả (upekkha, équanimité) ; và 8
chánh đạo(ariya atthangika magga) là chánh kiến
(samma ditthi, vue correcte), chánh tư duy (samma
sankappa, pensée correcte), chánh ngữ (samma
vacca, parole correcte), chánh nghiệp (samma
kammanta, action correcte), chánh mạng (samma
ajiva, moyen d'existence correct), chánh niệm (samma
sati, attention correcte), chánh định (samma
samadhi,concentration correcte). Tuy nhiên,
chúng ta có thể nhận thấy rằng có một số phẩm
trợ đạo có mặt trong nhiều nhóm khác nhau, chẳng
hạn như " tinh tấn ", " niệm ", " định ", v.v.,
cho nên tổng cộng lại ít hơn con số 37 nhiều.
(9) Chữ dipa có nơi được dịch là " ngọn đèn ",
nhưng theo hai nhà Phật học Walpola Rahula và
Môhan Wijayaratna, thì dịch như vậy là sai, bởi
vì dipa có nghĩa là " hòn đảo ". Có lẽ đó không
phải là hải đảo trên biển cả, mà là cồn đảo giữa
dòng sông lớn, nơi mà người ta có thể ghé thuyền
bè vào để tránh cơn nước lũ.
(10) Chữ Tăng (sangha) thường được hiểu theo
nghĩa hạn hẹp của đoàn thể tăng già (bhikkhu
sangha). Thật ra, trong kinh điển Pali cổ xưa,
sangha bao gồm cả 4 thành phần (tứ chúng) : tỳ
kheo (bhikkhu), tỳ kheo ni (bhikkhuni), nam cư
sĩ hay ưu bà tắc (upasaka), và nữ cư sĩ hay ưu
bà di (upasika), và đồng nghĩa với ariya-sangha
(thường dịch là " thánh hiền tăng ") và
savaka-sangha (thanh văn tăng). Ariya thật ra
không có nghĩa là thánh (saint), mà là chân
chánh, đúng đắn, tối thượng (noble, sublime).
Savaka (thanh văn) không phải chỉ là những đệ tử
nghe đức Phật thuyết giảng (auditeurs), mà là
những người sống theo giáo pháp mà họ đã được
nghe và học hỏi. Chữ ariya-savaka cũng được dùng
để chỉ định tất cả các đệ tử của đức Phật, xuất
gia hay cư sĩ, nam hay nữ, đã đạt được một trong
4 giai đoạn giải thoát (xem chú thích 13).
(11) Câu này rất quan trọng, bởi vì đã khẳng
định một cách rõ ràng rằng đức Phật đã giảng dạy
tất cả những gì có thể giảng dạy được, đã không
giấu diếm gì các đệ tử mình, không giữ lại một
điều bí truyền nào, để sau này có thể được phơi
bầy ra ánh sáng. Đó là thái độ của đạo Phật
Nguyên Thủy, ngược lại với đạo Phật Đại Thừa,
cho rằng vì có những giáo pháp quá cao siêu, khó
hiểu trong thời kỳ sơ khởi của đạo Phật, cho nên
đã được giữ kín hay chỉ được bí truyền cho một
vài đệ tử, để sau này được trình bầy cho quần
chúng nhiều thế kỷ sau.
(12) Trái với truyền thuyết " niêm hoa vi tiếu "
của Đại Thừa, làm cho Mahā-Kassapa (Đại Ca Diếp)
được tôn làm vị tổ Thiền tông đầu tiên, vị đại
đệ tử này thật ra là một người nghiêm nghị, khắc
khổ, được chúng tỳ kheo kính trọng. Trong vài
đoạn kinh Pali, đức Phật nói về ông như một
người ngang hàng với mình. Ông sanh ra trong một
gia đình Bà La Môn quí phái, và được giáo dục
theo truyền thống Veda. Ông bị gia đình ép buộc
lấy vợ, nhưng hai vợ chồng ở với nhau như anh em
trong 7 năm trời. Sau đó, cả hai đồng lòng quyết
định xuất gia theo một trường phái khổ hạnh,
trước khi qui y theo đức Phật. Lúc bấy giờ,
Ananda và Anuruddha, hai người em họ của đức
Phật, đều đã là đệ tử của Ngài. Theo kinh sách,
vì sống ở một vùng xa xôi, cho nên Mahā-Kassapa
không sống gần đức Phật trong những năm cuối đời
của Ngài.
(13) Theo kinh điển Pali, có 4 giai đoạn giải
thoát, mỗi giai đoạn phân chia ra làm 2 trạng
thái : đang trên đường đi (magga, đạo), và đã đi
tới nơi (phala, quả) : 1- Sotapatti (Dự Lưu,
celui qui est entré dans le courant). Muốn đạt
được giai đoạn này, phải diệt được 3 trên 5 hạ
phần kiết sử, tức là tà kiến, nghi ngờ và giới
cấm thủ. Người đạt được quả Dự Lưu sẽ không tái
sanh vào một hoàn cảnh xấu (ác đọa), và nếu tinh
tấn tu tập sẽ đi tới giai đoạn sau. 2 -
Sadakagami (Nhất Lai, celui qui ne reviendra
qu'une fois). Muốn đạt được giai đoạn này, phải
diệt trừ được một phần của 2 hạ phần kiết sử còn
lại, tức là ái dục và ghét hận. Người đạt được
quả Nhất Lai sẽ chỉ tái sanh một lấn nữa thôi,
và nếu tinh tấn tu tập sẽ đi tới giai đoạn sau.
3 - Anagami (Bất Lai, celui qui ne reviendra
plus). Muốn đạt được giai đoạn này, phải diệt
trừ hoàn toàn 5 hạ phần kiết sử (nhưng hãy còn 5
thượng phần kiết sử). Người đạt được quả Bất Lai
sẽ không còn phải tái sanh nữa, và nếu tinh tấn
tu tập sẽ đi tới giai đoạn cuối cùng. 4 -
Arahant (A La Hán). Muốn đạt được giai đoạn này,
phải diệt trừ tất cả các kiết sử, gồm cả 5
thượng phần kiết sử còn lại, là sắc tham, vô sắc
tham, kiêu mạn, trạo cử và vô minh. Như vậy tức
là đã giải thoát hoàn toàn khỏi các kiết sử, lậu
hoặc (A La Hán còn được gọi là khinasava, người
đã diệt trừ các lậu hoặc), như lời trong kinh
thường lặp lại : " Tái sanh đã tận. Phạm hạnh đã
thành. Những gì phải làm đã làm xong. Không còn
gì để thực hiện nữa ".
(14) Cô Ambapali trước kia là người đàn bà đẹp
nhất xứ Vajji, được nhiều hoàng tử say mê đến
nỗi gây chiến với nhau để tranh giành trái tim
cô. Sau đó, các nhà lãnh đạo xứ Vajji tìm ra
giải pháp là phong cô làm người kỷ nữ (courtisane)
chính, tiếp cận giới vương giả và thương gia. Cô
trở thành giầu có và sang trọng, và làm chủ
nhiều nhà cửa, đất đai, trong đó có một rừng
xoài lớn gần Vesali. Người con trai duy nhất của
cô sẽ trở thành một đệ tử xuất gia của đức Phật.
Tài liệu tham khảo
1) Kinh Đại Bát Niết Bàn (Mahāparinibbāna-Sūtra),
HT Thích Minh Châu dịch từ Pali sang Việt
http://cusi2.free.fr/dtk/truonbo/truong16.htm
hoặc
http://www.budsas.org/uni/u-kinh-truongbo/truong16.htm
2) Kinh Đại Bát Niết Bàn, HT Thích Trí Tịnh dịch
từ Hán sang Việt
http://www.niemphat.com/kinhdien/kinhdaibatnietban/kinhdaibatnietban.html
3) Kinh Đại Bát Niết Bàn, HT Thích Từ Thông
thuyết giảng (11 CD)
http://www.lotuspro.net/MP3/KinhDaiBatNietBan.htm
4) Môhan Wijayaratna, Le dernier voyage du
Bouddha
Editions Lis, Paris, 1998
5) Edward Conze, Le bouddhisme dans son essence
et son développement
Editions Payot, Paris 1951 - 1995
6) Peter Harvey, Le bouddhisme - Enseignements,
histoire, pratique
Editions du Seuil, Paris 1993