Câu trả lời, tất nhiên trước hết, là do
các cơ sở đào tạo của Phật giáo Việt Nam chưa đào tạo tăng ni sinh là
người dân tộc thiểu số vùng cao. Không đào tạo nguồn nhân lực, thì lấy
đâu ra nguồn nhân sự để thực hiện Phật sự hoằng dương chính pháp?
Do đó, đây là vấn đề, mà qua bài viết này, đặt ra với Ban Giáo dục
Tăng ni, các học viện, các trường trung cấp, sơ cấp Phật giáo.
Chúng ta dễ thống nhất, rằng sai lầm trước đây của Giáo hội Phật
giáo Việt Nam Thống nhất, là trong điều kiện có thể hoạt động tôn giáo,
đã bỏ trắng hoàn toàn việc hoằng pháp ở các tỉnh Tây Nguyên, lúc đó gọi
là cao nguyên Trung phần.
Vì thế, cho đến năm 1975, ở các tỉnh Tây Nguyên, đối với người
đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ, Tin Lành và đạo Ca tô La Mã đã chiếm
ưu thế. Nhất là Tin Lành, họ đã có được một số tín đồ người dân tộc
thiểu số hết sức đông đảo, đào tạo được cả mục sư có trình độ cao, như
chúng ta đã thấy.
Phật giáo ở Tây Nguyên chỉ giới hạn ở đồng bào người kinh từ xa di
dân tới, nhất là từ miền Trung lên và miền Bắc vào. Đường phân giới dân
tộc như thế lại trùng lên đường phân giới tôn giáo. Đó là điều rất bất
lợi cho sự nghiệp đoàn kết, thống nhất đất nước.
Vì thế, việc truyền bá đạo Phật đến người dân tộc thiểu số miền
cao Tây Nguyên là điều hết sức cấp thiết, không chỉ vì lợi ích của Phật
giáo Việt Nam, mà trước hết vì sự đoàn kết dân tộc. Nếu giữa người Kinh
và người các dân tộc thiểu số miền cao Tây Nguyên, ngoài ngăn cách do
khác biệt dân tộc, còn có ngăn cách do khác biệt tôn giáo, thì sự ngăn
cách đó sẽ trở nên lớn hơn, vấn đề trở nên phức tạp hơn rất nhiều.
Cả những năm sau 1975, việc truyền bá đạo Tin Lành và đạo Ca tô La
Mã vẫn được tiến hành mạnh mẽ, dù không có được thuận lợi từ phía chính
quyền. Trong giai đoạn này các nhà thờ vẫn phát hành sách giáo lý bằng
tiếng các dân tộc thiểu số, từ điển Việt-ngôn ngữ các dân tộc thiểu số
phục vụ cho tu sĩ, điều mà hầu như không có trong giới Phật giáo chúng
ta!
Những năm gần đây đã nghe nói đến vấn đề hoằng pháp cho người các
dân tộc thiểu số miền cao Tây Nguyên. Tuy nhiên, kết quả chưa rõ ràng
lắm, ngoài vài bản tin, một số bức ảnh, video clip.
Rõ ràng là đáng quan tâm, khi thấy cùng tháp tùng Chủ tịch nước đi
Hoa Kỳ, bên cạnh những vị tôn đức Phật giáo người Kinh, là một mục sư
Tin Lành người dân tộc thiểu số rất có trình độ. Xem lại danh sách Hội
đồng Chứng minh, Hội đồng Trị sự GHPGVN thì dường như không hề có giáo
phẩm người dân tộc thiểu số miền cao Tây Nguyên.
Không có tôn đức giáo phẩm người dân tộc thiểu số miền cao thì
đương nhiên phải nghĩ đến giải pháp là hoạt động giáo dục đào tạo. Có
được trong tay “Danh sách tăng ni sinh trúng tuyển chính thức vào khóa X
(2013-2017)” của Học viện Phật giáo Việt Nam tại TPHCM do Báo Giác Ngộ
tặng bạn đọc, tôi dò tìm ngay tên những tăng ni sinh người dân tộc thiểu
số. Nhưng không thấy! Hy vọng là tôi có thể dò sót? Và hơn nữa, còn Học
viện Phật giáo Việt Nam tại Huế, nơi gần các tỉnh Tây Nguyên hơn.
Chúng tôi nêu lại điều này để tất cả những người con Phật cùng suy
nghĩ về sự nghiệp hoằng pháp đến người dân tộc thiểu số miền cao. Chưa
có được kết quả như ý, có phải một phần do từ Phật giáo chúng ta chăng?
Có lần tôi thấy danh sách sinh viên Đại học Y Dược TPHCM tốt nghiệp vẫn
có tên những sinh viên bắt đầu bằng những chữ như Y, Kbua… (dù Đại học
Tây Nguyên đã có khoa Y). Một người cháu tôi, học Đại học Khoa học Tự
nhiên, cũng có bạn cùng lớp tên Y Hậu (người dân tộc thiểu số lai người
Kinh) đã từng ở nhờ nhà của tôi. Thế mà, lẽ nào cả một khóa sinh viên
Học viện Phật giáo mấy trăm người, không có sinh viên Phật học nào người
dân tộc thiểu số?
Để giải quyết vấn đề, tôi xin đề xuất mấy ý sau:
Phật giáo Việt Nam chúng ta nên lấy phương thức đào tạo cán bộ dạng cử tuyển của nhà nước làm kiểu mẫu, tức là:
- Tuyển người xuất gia và tăng ni sinh học viện, trường Phật
học các cấp theo hình thức tuyển sinh cử tuyển vào các trường. Thanh
thiếu niên người dân tộc thiểu số muốn theo học trường Phật giáo thì
nhận ngay vào trường Phật học theo chế độ ưu tiên (không loại bằng thi
tuyển).
- GHPGVN địa phương cấp học bổng và những trợ cấp đặc biệt
riêng khác cho tăng ni sinh người dân tộc thiểu số vùng cao cử tuyển như
hình thức nhà nước cấp học bổng tài trợ đối với học sinh, sinh viên
người dân tộc thiểu số cử tuyển, thậm chí học bổng và tài trợ có giá trị
cao hơn để khuyến khích.
- Đào tạo tăng ni sinh người dân tộc thiểu số miền cao theo
tinh thần chủ động, tạo duyên tu học trước. Phải tạo duyên tu học thì
mới biết họ có duyên tu học hay không. Nếu hoằng pháp và tuyển sinh
trường Phật học đối với thanh niên người dân tộc thiểu số theo cùng một
cách, với cùng một chuẩn, yêu cầu ngang với thanh niên tăng ni nói
chung, thì rất khó có được tăng ni sinh là người dân tộc thiểu số vùng
cao. Và như thế sự nghiệp hoằng pháp cho đồng bào dân tộc thiểu số vùng
cao không biết khi nào mới tiến lên được?
Phật giáo Việt Nam chúng ta nên tuyển tăng ni sinh người dân tộc
thiểu số với quan điểm như nhà nước trong cử tuyển cán bộ người dân tộc
thiểu số, đó là:
- Tạo mọi thuận lợi để đào tạo người dân tộc thiểu số tại địa
phương, để về phục vụ cho chính đồng bào họ, tại chính địa phương họ.
- Yêu cầu tiêu chuẩn có thể điều chỉnh theo hướng giảm, tùy
điều kiện, địa phương cụ thể, sao cho trước hết là có được người. Khi có
được người, sẽ từ từ nâng trình độ sau.
Nếu thận trọng, theo chúng tôi có thể làm thí điểm ở quy mô nhỏ,
ít người. Nếu thành công thì mở rộng. Nếu có khó khăn, thì điều chỉnh
từng bước, tùy hoàn cảnh cụ thể. Nhưng phải làm ngay, vì đã chậm trễ lắm
rồi!
Có thể trong giai đoạn đầu, tiểu chuẩn cử tuyển thấp. Nhưng sau
đó, các trường Phật giáo có thể nâng dần lên từng bước. Tôi có nghe
thông tin rằng chất lượng sinh viên dân tộc thiểu số cử tuyển ở các
trường càng cao. Hiện nay, có nhiều em sinh viên người dân tộc thiểu số
học giỏi không kém gì sinh viên các tỉnh thành đồng bằng ven biển.
Chuyện xây chùa ở vùng cao nguyên cho những tăng ni người dân tộc
thiểu số tất nhiên là điều phải tính đến. Nhưng, cái trước hết phải là
có người. Mua đất cất chùa chỉ cần vài ba tháng. Nhưng trồng người phải
cần thời gian hàng chục năm.
MT