với tâm
nguyện hồi hướng cho tổ tiên phụ mẫu
quá vãng được siêu sanh tịnh độ, cầu cho
cha mẹ hiện tiền được tăng long
phước thọ, với niềm báo đáp trọng ân
dưỡng dục của các bậc sanh thành, noi
gương tôn giả đại hiếu Mục Kiền
Liên ghi trong kinh sách.
Khi làm các
Phật sự trên đây, chúng ta thường nghĩ là
được nhiều công đức và thường
được tán dương đã làm được vô
lượng công đức, cho nên cứ tiếp tục làm
hằng năm.
Nhân mùa Vu Lan
năm nay, chúng ta hãy dành thời gian để tìm hiểu
một vấn đề khá quan trọng, đó là: "Công Ðức và Phước
Ðức khác nhau thế nào?"
* * *
Ngày xưa,
khi Tổ Bồ Ðề Ðạt Ma từ Ấn Ðộ sang
Trung Hoa hoằng pháp, Ngài đến gặp Vua Lương
Võ Ðế. Trong lúc luận bàn đạo lý, nhà vua hỏi:
"Trẫm một đời cất chùa, độ
tăng, bố thí, cúng dường, đúc chuông, tạo
tượng, ấn tống kinh sách, như vậy có
được công đức gì chăng?". Tổ
Bồ Ðề Ðạt Ma trả lời một cách rõ ràng
rằng: "Những việc làm ấy thực không có công
đức gì cả!".
Vấn
đề này làm cho nhiều người thắc mắc,
không biết tại làm sao như vậy lại không có công
đức gì cả? Bởi vì, theo lịch sử ghi chép
lại thì Vua Lương Võ Ðế xây cất hằng
trăm ngôi chùa, độ tăng chúng tu hành rất đông,
thiết trai bố thí, cúng dường, đúc chuông,
tạo tượng, ấn tống kinh sách nhiều vô
số kể. Nhà vua suy nghĩ làm như vậy tức nhiên
được rất nhiều công đức, nhưng
không ngờ khi đem vấn đề này ra hỏi, Tổ
Bồ Ðề Ðạt Ma trả lời: Không! Tại sao
vậy?
Có
người không hiểu giáo lý nên giải thích là: Vua
Lương Võ Ðế không đích thân ra "công" thực
hiện những việc làm đó, chỉ sai người
khác làm, nên không có "công đức" gì cả!
Thời gian
sau đó, có người đem sự việc này thưa
hỏi Lục Tổ Huệ Năng và được
Lục Tổ dạy như sau: Quả thực là không có
công đức gì cả. Vua Lương Võ Ðế vì không
biết Chánh Pháp, nên lầm lẫn hai chữ "Công
Ðức" và "Phước Ðức"!
Nghĩa là
cất hàng trăm ngôi chùa, độ tăng chúng tu hành
rất đông, thiết trai cúng dường, bố thí,
đúc chuông, tạo tượng, ấn tống kinh sách,
chỉ là những việc làm "bên ngoài", còn gọi là
tu tướng, có ích
lợi cho mọi người, những việc làm cầu
phước, nên gọi là phước
đức. Phước đức có công năng giúp
chúng ta giảm thiểu nghiệp chướng, tiêu trừ
quả báo, để được tai qua nạn khỏi,
để được may mắn và sung sướng trên
đường đời, để bớt chướng
ngại trên đường đạo, chứ không giúp
chúng ta thoát ly khỏi vòng trầm luân sanh tử.
Phước đức có tính cách "hữu lậu"
hay "hữu vi", nghĩa là con người
hưởng phước vẫn còn trong lục đạo
luân hồi. Khi thụ hưởng hết phước
rồi thì bị đọa lạc để đền
trả quả báo.
Còn công đức là công phu tu
tập "bên trong", còn gọi là tu tâm, có ích lợi cho chính mình, nhờ hành trì theo
lời Phật dạy trong các kinh điển, luôn luôn
niệm Phật, giữ gìn giới luật, tu tập
thiền định, phát huy trí tuệ bát nhã. Nghĩa là
chúng ta tu tập tam vô lậu học "Giới Ðịnh
Tuệ" và tam tuệ học "Văn Tư Tu",
nhằm mục đích cứu kính là: thoát ly khỏi lục
đạo sanh tử luân hồi. Công đức có năng
lực giúp chúng ta vượt qua bể khổ sông mê, chóng
đến bờ giác ngộ và giải thoát. Công đức
có tính cách "vô lậu" hay "vô vi", nghĩa là
không còn trong lục đạo sanh tử luân hồi
nữa. Công đức giúp con người chuyển hóa tâm
tánh từ phàm phu tục tử trở thành bồ tát, thành
Phật.
Chúng ta làm
những việc như lập chùa hay góp phần xây cất
chùa, tham gia phát triển chùa, phát huy các sinh hoạt, các
hoạt động của chùa, của giáo hội, giúp cho
mọi người khác có được cơ sở
để tu học, để hành đạo, giúp cho Phật
giáo có cơ hội phát triển mạnh mẽ hơn,
rộng rãi hơn, vững chắc hơn, độ
được nhiều người hữu duyên hơn
nữa. Những việc làm này đem lại lợi ích cho
nhiều người như vậy, tức nhiên sẽ
đem lại cho chúng ta thực nhiều phước
đức. Còn riêng bản thân mình thì không biết tu tâm
dưỡng tánh, không học kinh điển, không biết
trì giới, không tu tập thiền định, không phát huy
trí tuệ bát nhã, cho nên tất cả việc làm trên đây
chỉ là những việc làm bên ngoài, có ích lợi cho
nhiều người, nhưng không ích lợi cho bản thân
mình về phương diện giác ngộ và giải thoát.
Tại sao vậy?
Bởi vì,
tâm tham lam, sân hận, si mê bên trong chẳng những không
giảm bớt mà lại có chiều hướng tăng
thêm, vô minh phiền não không tan biến chút nào mà lại có
phần dầy đặc hơn. Vì chấp chặt mình
đã làm được bao nhiêu việc ích lợi như
vậy, dễ có mấy ai làm được như mình, nên
tâm cống cao ngã mạn, phách lối ngày một tăng
thêm, mục hạ vô nhân, khen mình khinh người.
"Bản ngã" đáng lẽ ngày một tiêu mòn tới
chỗ "vô ngã" mới hy vọng đạt
được đạo cả. Trái lại, bản ngã
ngày một tăng lớn thêm, con người không còn thích
nghe lời khuyên bảo của bất cứ ai, cứ
chấp chặt định kiến sẵn có mà đi
tới.
Thậm chí
có người chấp chặt pháp tu của mình, không
muốn thay đổi, không muốn nghe lời chỉ
dẫn của bất cứ ai, dù là bực trưởng
thượng, dù là thiện hữu tri thức, lại còn
dám tuyên bố: cho dù Ðức Phật Thích Ca thị hiện
bảo họ đổi pháp tu đang thực hành, họ
cũng không nghe! Thậm chí nguy! Thậm chí nguy! Bởi
vậy, cho nên chư Phật Tổ dạy rằng:
Những việc làm như vậy quả thực là không có
"công đức" chút nào cả, chính là nghĩa đó
vậy!
Những
việc làm khác như góp phần ấn tống kinh sách cho
người khác đọc, còn mình thì không đọc, in
băng dĩa thuyết pháp cho người khác nghe, còn mình
thì không nghe, góp phần bố thí cúng dường, giúp
đỡ người hoạn nạn, nghèo khó, nhưng
không hiểu ý nghĩa cao cả của những việc làm
đó, trái lại, còn sanh tâm cầu mong được
"trả công bội hậu" ở cõi thiên đàng sau
này. Tất cả những việc làm đó chỉ tạo
nên phước đức mà thôi.
Thí dụ
như có người bố thí cho nhà nghèo, hoặc cúng chùa
một số tiền nào đó, với tâm mong cầu
được trúng số độc đắc,
được buôn may bán đắt, được
nhất bổn vạn lợi, được thi đâu
đậu đó, được gia đạo bình an,
được tình duyên may mắn, được vạn
sự bình yên, được muôn sự như ý, muốn gì
được nấy. Như vậy, lòng tham lam tăng
thêm quá mức thì "làm sao có công đức
được"! Làm như vậy, chỉ có
phước đức hạn chế, theo số tiền
đã bỏ ra mà thôi. Gieo nhân nhỏ thì chỉ nhận
được quả nhỏ, không thể khác
được.
Nếu
như bố thí, cúng dường mà tâm không mong cầu gì
cả, thi ân bất cầu báo đáp, cúng chùa để chùa
có thêm phương tiện sinh hoạt ích lợi cho mọi
người, giúp người để cho người qua
cơn khó khăn, túng thiếu, không đắn đo, không
suy nghĩ, không tính toán gì thêm nữa, chúng ta sẽ bớt
đi tâm tham lam, bỏn sẻn, tăng trưởng tứ
vô lượng tâm: từ, bi, hỷ, xả.
Chúng ta hãy
tinh tấn làm tất cả những việc thiện,
rồi quên hết đi, không chấp chặt vào đó,
để kể lể công lao, hay mong cầu phước
báo về sau, tâm cầu danh của chúng ta sẽ bớt
đi, tâm chấp ngã cũng nhẹ hơn trước, thì
những việc làm đó vừa
ích lợi cho người và cho mình, tạo nên phước
đức và công đức vậy.
* *
Trong Kinh
Ðại Bát Niết Bàn, Ðức Phật có dạy:
Chư ác mạc tác.
Chúng thiện phụng hành.
Tự tịnh kỳ ý.
Thị chư Phật giáo.
Nghĩa là
chúng ta không làm tất cả các việc bất thiện,
không làm những việc ác, tránh những việc tổn
người hại vật, cố gắng làm tất
cả những việc thiện, những việc ích
lợi cho người khác, nhưng đừng ghi nhớ,
đừng chấp chặt vào những việc ích lợi
đã làm, thì tâm ý của chúng ta sẽ được thanh tịnh.
Ðó là tu tâm dưỡng tánh, đó là điều cốt
yếu chư Phật mười phương ba
đời muốn dạy như vậy. Thí dụ chúng ta
đã làm những việc ích lợi cho bất cứ ai mà
chấp chặt vào đó thì tâm của chúng ta sẽ bực
dọc, bất an khi không được ai khen tặng
hoặc không được ai đáp ứng như ý.
Nếu như quên đi những việc thiện đã làm,
giúp đỡ người với tâm "thi ân bất
cầu báo đáp", thì chúng ta sẽ yên ổn, bình an, tâm
của chúng ta sẽ không loạn động, không bực
bội khi gặp phải người vô ơn.
*
Trong Kinh Tâm
Ðịa Quán, Ðức Phật dạy:
"Tâm địa bình thì thế
giới bình".
Nghĩa là
tâm địa của chúng ta bình an thì thế giới chung
quanh chúng ta cũng bình an. Tâm địa chúng ta không tham lam
thì những người chung quanh khỏi lo canh chừng
đồ đạc. Tâm địa chúng ta không sân hận
thì những người chung quanh khỏi điếc
lỗ tai, khỏi mỏi cái miệng, khỏi nhức cái
đầu. Tâm địa chúng ta không si mê thì những
người chung quanh ăn ngon ngủ yên, khỏi lo
khỏi sợ. Kể gần thì có vợ chồng con cái, xa
thì có bà con hàng xóm láng giềng, các bạn đồng
nghiệp trong sở làm, cũng được
hưởng sự bình an. Nếu chúng ta đạt
được tâm bình an hiện đời, thì ngay thế
gian này chính là miền cực lạc, là cõi thiên đàng,
đâu phải đợi đến kiếp sau mới
hưởng được, đâu phải đợi
lời cầu chúc "sớm tiêu diêu nơi miền cực
lạc", hoặc "chóng siêu thăng lên cõi thiên
đàng", trên báo chí!
Cũng có
câu:
"Bình an dưới thế cho
người thiện tâm".
Nghĩa là
ở ngay tại thế gian này, người có tâm hiền
thiện thì đương nhiên được sự bình
an trong tâm hồn. Bởi vì người thiện tâm không
phải bận tâm suy nghĩ phương cách, mưu kế
hại ai, cho nên không lo sợ bị ai hại, không phải
bận tâm trừng phạt ai, cho nên không lo sợ bị ai
trừng phạt. Sự bình an không do đấng nào ban cho
cả, không do cầu nguyện mà được. Sự
bình an chỉ có từ thiện tâm mà thôi. Ngược
lại, người không có thiện tâm thì tự họ
không có được sự bình an. Rất là đơn
giản. Rõ ràng là như thế, không nghi! Như vậy, chúng
ta hiểu rằng "phước đức" rất
cần thiết trong cuộc sống hằng ngày của
chúng ta. Nhờ phước đức chúng ta qua
được, giảm được những nghiệp
báo, những chướng nạn trong cuộc đời,
cũng như những trở ngại trên đường
tu tập. Chuyện lớn hóa nhỏ, chuyện nhỏ hóa
không. Ví như chúng ta có tiền tiết kiệm để
dành trả những nợ đã vay từ nhiều kiếp
trước và kiếp này vậy. Tiền tiết kiệm
nhiều chừng nào thì mau dứt nợ chừng ấy.
Tuy nhiên,
Ðức Phật có dạy chúng ta gieo nhân làm phước, tu
phước nhưng hãy hồi hướng những phước
đức đó, nguyện đời đời
được gặp Chánh Pháp, được gặp
thiện hữu tri thức, được nhắc nhở
việc tu tập, cho đến ngày được giác
ngộ và giải thoát, chứ đừng mong cầu
hưởng quả phước sau này. Tại sao vậy?
Bởi vì làm phước thì hưởng phước,
nhưng đến khi hết phước thì bị
đọa, cứ vẫn loanh quanh luẩn quẩn ở
trong vòng sanh tử luân hồi, chưa thoát ra
được. Ví như mũi tên bắn lên không trung, khi
hết trớn, tức nhiên rớt trở xuống
đất rất nhanh vậy. Chúng ta hãy thử nhìn
những người giàu có, những người quyền
thế, những ông vua, những ông hoàng, những bà hoàng,
những quận nương, những công chúa đã và
đang thụ hưởng phước báo, được
giàu sang sung sướng, xinh đẹp tuyệt trần,
danh vọng tột đỉnh, vinh hoa phú quý, đến khi
hưởng hết phước báo, cuộc đời
của họ kết thúc bằng đủ mọi cách
hết sức bi thảm. Luật nhân quả giải thích
được các hiện tượng đó của
thế gian, đúng trong ba thời: quá khứ, hiện tại,
vị lai. Rõ ràng "mình làm mình hưởng, mình làm mình
chịu", chứ không do một đấng
thượng đế nào ban phước giáng họa
một cách tùy tiện cả.
*
Trong Kinh Pháp
Bảo Ðàn, Lục Tổ Huệ Năng dạy rằng:
"Trong tâm khiêm tốn là công.
Ngoài hành lễ phép là đức".
Hay:
"Nội cần khắc
niệm chi công. Ngoại hoằng bất tranh chi
đức".
Nghĩa là
"bên trong" chúng ta phải chuyên cần vận nội
lực loại trừ những tâm niệm kiêu ngạo,
tật đố, ngã mạn, ganh tị, đố kỵ,
khen mình khinh người, để đạt
được tâm niệm khiêm tốn, hạ mình, nhún
nhường, tùy hỷ công đức. Ðồng thời,
chúng ta cũng phải vận nội công để khắc
phục các tạp niệm, để tâm không còn có các
vọng tưởng. Mỗi khi tạp niệm, vọng
tưởng khởi lên, chúng ta liền giác ngộ, liền
nhận biết và dừng ngay, không tiếp tục theo dòng
tâm thức, đi lang thang từ đông sang tây, từ quá
khứ đến hiện tại và vị lai, từ
chuyện này đến chuyện khác. Như vậy chúng ta
có được "công". Ðiều quan trọng cần
biết là: chúng ta đừng sợ có vọng
tưởng, tạp niệm khởi lên trong tâm thức. Ai
ai cũng có vọng tưởng và tạp niệm. Chỉ
sợ chúng ta không giác ngộ, không nhận biết kịp
thời, nên bị vọng tưởng, tạp niệm lôi
cuốn, đi lang thang làm khách phong trần, quên mất
cố hương, từ bao nhiêu đời, bao nhiêu
kiếp. Khi dong ruỗi theo các vọng tưởng, tạp
niệm như vậy, tâm của chúng ta sẽ loạn
động với thất tình lục dục, tức là
quên mất "bản tâm thanh
tịnh" sẵn có của chúng ta.
Còn "bên ngoài" chúng ta thực hành
lễ phép, cung kính, tôn trọng tất cả mọi
người, bởi vì mọi người ai ai cũng có
"Chơn Tâm Phật Tánh" như nhau, mọi
người ai ai cũng có ưu điểm để chúng
ta học hỏi, noi theo, không phân biệt, không thành
kiến, không kỳ thị, không tranh cãi, không hơn thua,
không thị phi, không ỷ mình là kẻ trên người
trước, kẻ có nhiều công lao, kẻ có nhiều tài
năng, kẻ làm được nhiều việc không ai
bằng. Như vậy chúng ta được nhiều
người thương mến, gần gũi. Như
vậy chúng ta có được "đức".
Thêm nữa, người Phật Tử
muốn có công đức thì bên trong không có tâm chấp ngã,
tâm chấp pháp, nói chung là tâm cố chấp; bên ngoài hành
động luôn luôn ngay thẳng, bình đẳng, công minh,
chính trực. Hãy phát tâm tìm học kinh điển, biết
đúng Chánh Pháp mà hành theo, tránh chuyện tu mù, tu mò,
để khỏi lạc sang tà giáo, ngoại đạo.
Công đức là ở "Pháp Thân", phát sanh trí tuệ
bát nhã, không do tu phước, không do làm những việc
phước thiện mà được.
Chúng ta ngày
nay cũng hay lầm lẫn cho rằng lập chùa, giúp
chư tăng tu học, bố thí, cúng dường, làm
Phật sự, đi chùa lạy Phật là được
nhiều công đức và tự hào rằng mình làm vô
lượng vô biên công đức, cần phải
được tán thán, rồi chờ đến ngày
được vãng sanh về cõi tây phương cực
lạc quốc của Ðức Phật A Di Ðà! Chúng ta cần
nên biết nếu chỉ niệm Phật A Di Ðà sơ
sơ, qua loa, rồi cầu mong vãng sanh về cõi tây
phương cực lạc là biểu hiện của tâm
tham lam, tánh lười biếng, làm ít muốn hưởng
nhiều! Muốn tu hành mà không chịu học kinh
điển, không gần các bực thiện hữu tri
thức, nên chúng ta không rõ chư Phật dạy phải hành
trì như thế nào mới được vãng sanh.
*
Trong Kinh A Di
Ðà, Ðức Phật dạy rất rõ ràng:
"Cực
lạc quốc độ chúng sanh sanh giả, giai thị a
bệ bạt trí, kỳ trung đa hữu nhứt sanh
bổ xứ, kỳ số thậm đa, phi thị toán
số, sở năng tri chi, đản khả dĩ vô
lượng vô biên a tăng kỳ thuyết. Chúng sanh văn
giả, ưng đương phát nguyện, nguyện sanh
bỉ quốc. Sở dĩ giả hà? Ðắc dữ như
thị chư thượng thiện nhơn câu hội
nhứt xứ. Bất khả dĩ thiểu thiện
căn phước đức nhân duyên đắc sanh
bỉ quốc".
Nghĩa là
cõi Tây phương cực lạc là nơi chỉ có các
bực bồ tát "nhứt sanh bổ xứ", tức
là các bực "thượng thiện nhơn" sắp
thành Phật, những người hiền thiện bậc
thượng, gặp gỡ nhau mà thôi. Những
người còn đầy dẫy tham sân si, đầy
dẫy nghiệp chướng, đầy dẫy phiền
não thì nhứt định không thể nào đạt được
cảnh giới đó. Không thể chỉ lấy có một
chút ít thiện căn phước đức làm nhân duyên,
để cầu nguyện về cõi cực lạc đó được.
Ví như
người đeo nặng qua sông thì phải chìm, không
thể nổi được. Chứ không phải Ðức
Phật A Di Ðà không có lòng từ bi cứu độ chúng ta.
Chư Phật có tâm đại từ đại bi muốn
cứu độ chúng ta, nên chỉ dạy các pháp môn tu
học, các phương pháp, để chúng ta noi theo đó
mà tự mình tu tập, để tự được
cảnh giới an lạc và hạnh phúc hiện đời
và vãng sanh mai sau. Có người quan niệm "đới
nghiệp vãng sanh", nghĩa là con người vẫn còn
mang nghiệp chướng, nhưng nhờ biết niệm
Phật A Di Ðà, nên được Ngài thương xót cho vãng
sanh về cõi tây phương cực lạc, rồi tu
tiếp sướng hơn. Ðiều này có vẻ "phe
đảng" cũng như quan niệm cứ chấp
nhận rước thượng đế vào lòng thì
sẽ được thượng đế cho về
thiên đàng, hưởng phước đời
đời, không cần biết đó là người như
thế nào!
Thực ra,
đạo Phật không có dạy như vậy. Nếu
thực sự muốn tu cho thành người tốt, thì
chúng ta hãy tu ngay ở cõi đời này, đừng hẹn.
Còn mang nghiệp chướng nặng nề, tham giận
kiêu căng, si mê lầm lạc, nếu về tây
phương, chỉ làm nơi đó ô uế mà thôi. Dù có
được về bên đó chăng nữa, không
thấy thích hợp, cũng sẽ đòi về trở
lại mà thôi! Sống với những người thế
tục, chúng ta mới cần phải tu, mới có cơ
hội để tu. Chứ về bên đó gặp toàn
người tốt thì đâu cần phải tu nữa.
Cũng như người còn nhiều phiền não quá,
nhiều nghiệp chướng quá, dù có được
đưa vào chùa ở, mà không quyết tâm trì chí, cũng khó
mà tu được, có ngày cũng xuất, nếu không
xuất thì sẽ gây biết bao nhiêu việc đáng
tiếc cho cảnh thiền môn!
*
Trong Kinh A Di
Ðà, Ðức Phật cũng dạy:
"Nhược
hữu thiện nam tử, thiện nữ nhân, văn
thuyết A Di Ðà Phật, chấp trì danh hiệu,
nhược nhứt nhựt, nhược nhị nhựt,
nhược tam nhựt, nhược tứ nhựt,
nhược ngũ nhựt, nhược lục nhựt,
nhược thất nhựt, nhứt tâm bất loạn.
Kỳ nhơn lâm mạng chung thời, A Di Ðà Phật dữ
chư thánh chúng hiện tại kỳ tiền, thị nhơn
chung thời, tâm bất điên đảo, tức
đắc vãng sanh A Di Ðà Phật cực lạc quốc
độ".
Nghĩa là
nếu có thiện nam, thiện nữ nào nghe
được danh hiệu Phật A Di Ðà, luôn luôn trì
giữ danh hiệu đó trong tâm trí, lúc nào cũng niệm
Phật, nhớ nghĩ tới Phật, trong một ngày, hai
ngày, ba ngày, bốn ngày, năm ngày, sáu ngày, cho đến
bảy ngày, đạt được tâm yên không loạn.
Khi thọ mệnh hết, người như vậy
giữ gìn được tâm không điên đảo,
tức thời được vãng sanh cõi nước tây
phương cực lạc của Ðức Phật A Di Ðà. Tại
sao vậy?
Bởi vì khi
tâm của người đó luôn luôn niệm Phật, không
còn lăng xăng, lộn xộn, không còn loạn
động vì các việc đối đãi thị phi,
hơn thua, tốt xấu, cho nên cảm ứng
được cảnh giới tịnh độ của
Ðức Phật A Di Ðà vậy.
Nói cách khác,
tâm của người đó thấy mọi sự đúng
như thực, thấy mọi việc không còn điên
đảo, gọi là "tâm bất điên
đảo", cho nên người đó thấy
được "Tự Tánh Di Ðà, Duy Tâm Tịnh
Ðộ". Nghĩa là nhờ tâm được thanh
tịnh, bất loạn động, bất điên
đảo, cho nên người đó thấy
được "Phật Tánh", tức là "Pháp Vô
Sanh", không còn sanh tử luân hồi, tức đắc
vãng sanh tây phương cực lạc. Nếu còn nghiệp
chướng nặng nề, tham giận kiêu căng, si mê
lầm lạc, nghĩa là tâm còn điên đảo, tâm còn
loạn động, làm sao vãng sanh được mà mong
cầu!
Cõi tây
phương cực lạc hay cõi thiên đàng là cảnh
giới "bất tùy phân biệt", bình đẳng
tuyệt đối, chí công vô tư, làm gì còn chia giai cấp
có chín phẩm, ba hạng, thượng trung hạ, như
con người tưởng tượng với tâm lăng
xăng, cho thêm lộn xộn và phức tạp! Không
thể lấy tâm lượng phàm phu xét cảnh giới
bồ tát!
Như
vậy, cốt tủy của đạo Phật, không
phải chỉ là van xin cầu nguyện, cúng kiến
lễ lạy cho nhiều, mà chính là lúc nào cũng nhớ
nghĩ tới hạnh nguyện của chư Phật, nói
lời như Phật dạy, hành động như
Phật dạy, luôn luôn giữ gìn tâm ý thanh tịnh, bình an,
yên tĩnh, không loạn động, không điên
đảo. Ðược như vậy, tam nghiệp hằng
thanh tịnh, chúng ta vừa có phước đức
vừa có công đức đầy đủ, phước
tuệ trang nghiêm, tùy tâm mãn nguyện. Kinh sách có câu:
"Phước Tuệ Lưỡng Toàn Phương Tác
Phật". Cứu kính của đạo Phật chính là
nghĩa đó vậy.
*
Trong Kinh Tịnh Danh, Ðức Phật có
dạy:
"Tâm tịnh thì độ
tịnh".
Nghĩa là
tâm có thanh tịnh, trong sạch, yên tĩnh, chúng ta mới có
thể sống trong cõi tịnh độ, tức là
cảnh giới thanh tịnh và an lạc được.
Tâm có hiền thiện, ngay thẳng chân thật, chúng ta
mới sống trong cõi thiên đàng được. Bình an
dưới thế cho người thiện tâm. Rõ ràng là
như thế! Như vậy cõi tịnh độ ở
ngay trong tâm của chúng ta, ngay hiện đời, nếu
như tâm của chúng ta không còn tham lam, sân hận và si mê
nữa.
*
Trong Kinh Pháp
Cú, Ðức Phật có dạy:
"Hãy tự thắp
đuốc lên mà đi. Thắp lên với Chánh Pháp".
Nghĩa là
mọi người phải tìm hiểu, học hỏi Chánh
Pháp, đem ngọn đuốc trí tuệ của mình
mồi với ngọn đuốc trí tuệ Phật,
bằng cách nghe giảng giáo lý, nghiên tầm kinh
điển, rồi tự suy nghĩ, ứng dụng trong
cuộc sống hằng ngày, giữ gìn giới luật, tu
tập thiền định, phát triển trí tuệ bát nhã.
Nhờ giữ gìn giới luật nên tâm trí được
thanh tịnh và trí tuệ bát nhã khai mở. Ðó chính là tam vô
lậu học "Giới Ðịnh Tuệ" và tam tuệ
học "Văn Tư Tu", có khả năng đưa
chúng ta đến chỗ giác ngộ và giải thoát.
*
Kinh sách có
câu: "Phước Tuệ Lưỡng
Toàn Phương Tác Phật".
Nghĩa là
chúng ta hãy phát tâm bồ đề dũng mãnh, làm tất
cả những việc tạo phước đức trong
các dịp lễ thượng ngươn, trung
ngươn, hạ ngươn, và tất cả dịp nào
tùy duyên, tùy khả năng, tùy hoàn cảnh trong suốt
năm, suốt đời. Ðồng thời chúng ta cũng
làm tất cả những việc tạo công đức
như Văn Tư Tu, Giới Ðịnh Tuệ, để
phát triển trí tuệ bát nhã. Ðầy đủ "Phước
và Tuệ" chúng ta sẽ sống trong an lạc và
hạnh phúc hiện đời và về cõi Phật sau này,
không nghi. Cũng như con chim có đủ hai cánh sẽ bay
thăng bằng và bay được xa.
* *
Ngày xưa,
sau khi thành đạo, Ðức Phật Thích Ca sống trong
cảnh giới an lạc, cảnh giới tịnh
độ, ngay hiện đời, ngay trên cái thế
giới gọi là ta bà khổ đối với mọi
chúng sanh khác. Tâm của Ngài thanh tịnh, cho nên ở mọi
nơi Ngài đều có thể sống yên tịnh
được, dù trong tịnh xá hay trong núi rừng, dù
nơi vắng vẻ hay chốn đông người, tùy
theo chỗ ở thường an lạc.
Trên thế
gian này, chung quanh chúng ta có đủ hạng người, có
đủ loại người. Có người tạo
thuận cảnh dễ dãi, giúp đỡ chúng ta tu tập,
cũng có người tạo nghịch cảnh, gây
phiền hà, khó khăn, khổ đau, để thử
thách công phu tu tập của chúng ta. Tất cả mọi
người đều là thiện hữu tri thức
của chúng ta cả. Nếu ai ai cũng hiền thiện
hết, không ai làm phiền mình hết, làm sao biết chúng ta
nhẫn nhịn được tới đâu? Ví như
người học sinh đi học, được
thầy dạy cho kiến thức, được bạn
bè giúp đỡ, rồi cũng cần có vị giám
khảo để kiểm tra trình độ, hạch
hỏi, thử thách, nếu vượt qua được,
mới cấp văn bằng chứ.
Có câu
chuyện hai con chim như sau: Một hôm, con chim bồ câu
thấy hàng xóm là con chim cú vọ sửa soạn dọn
tổ đi, liền hỏi: Chị định dọn
đi đâu? Con chim cú vọ đáp: Dân ở đây hung ác
quá, mỗi lần gặp tôi, cứ lấy đá ném,
lấy cây đánh, nên tôi định dọn về
phương tây ở, bên đó nghe nói dân chúng hiền
thiện hơn. Mong vậy lắm thay! Con chim bồ câu bèn
nói: Chỗ hàng xóm láng giềng, tôi xin nói thực, chị
đừng giận tôi nhé. Theo quan điểm của tôi,
nếu chị thành tâm, chịu khó sửa cái giọng kêu ghê
rợn của chị, cho dễ nghe hơn, thì chắc không
còn ai ném đá, không còn ai lấy cây đánh chị nữa
đâu. Nếu như chị không chịu sửa cái
giọng khiếp đảm khó nghe đó, thì dù có ai
rước qua phương tây, chị cũng không ở yên
bên đó được đâu. Thực như vậy
đó!
Câu chuyện
trên ngụ ý chúng ta nên xoay lại quán chiếu, tu sửa tâm
tánh của chính mình, đừng nhìn ra ngoài trách cứ, phê
phán, chỉ trích người khác, thì cực lạc hay thiên
đàng chính là đây, hiện tiền ngay tại thế
gian này, ngay trong tâm của mỗi người, rất
đơn giản, rất thực tế, không cần
cầu nguyện, khỏi phải mơ tưởng
viễn vông, khỏi nhọc công, không phí sức, khỏi
bị gạt gẫm, không cần tìm kiếm đâu xa.
* * *
Tóm lại,
vì không biết rõ đâu là Chánh Pháp, cho nên chúng ta không thể
thực hành lời Phật dạy, một cách tường
tận, một cách đúng đắn, để thoát ly sanh
tử luân hồi, thoát ly phiền não và khổ đau.
Có câu: "Ai
ăn nấy no. Ai tu nấy chứng". Ðó là lẽ công
bằng tuyệt đối. Cũng vậy, thực rõ ràng
"Mình làm mình hưởng. Mình làm mình chịu". Vì thế
cho nên, ngay từ bây giờ, chúng ta hãy phát tâm, tự
thắp sáng ngọn đuốc trí tuệ của mình,
thường xuyên về chùa lạy Phật, nghe thuyết
pháp, tham dự các khóa tu học bát quan trai giới,
để được học Phật Pháp một cách
tường tận, trong bầu không khí tu học
đầy đạo vị, không phân biệt người
mới phát tâm, hay người đã tham gia tu học từ
lâu, chúng ta cùng hướng dẫn nhau, nương tựa
nhau, giúp đỡ nhau, trên bước đường tu
giác ngộ và giải thoát.
Ðược như vậy, chúng
ta có "Công Ðức và Phước Ðức", một cách
viên mãn, một cách lưỡng toàn. ڤ