Lũy tre thấp thoáng đàng xa
Mấy mươi bước nữa về qua cổng làng
Trong lòng bỗng thấy xốn xang
Quê hương hai tiếng nặng mang suốt đời...
Xưa, ở những làng quê châu thổ Bắc bộ, Làng khi ấy tương
đối khép kín, chỉ để một hoặc hai lối ra vào và cổng làng
được quy định là giới hạn giao lưu liên làng và mở ra khu
thổ canh của làng đó. Vào buổi sáng, cổng làng mở, dân làng
đi làm, đến tối lặn mặt trời, sau khi dân làng về thôn thì
cổng làng được đóng lại, "nội bất xuất, ngoại bất nhập".
Lâu dần, cổng làng không chỉ là nơi phân địa giới giữa các
làng với nhau, mà trở thành biểu tượng văn hoá của làng quê
châu thổ Bắc bộ, cùng với cây đa, mái đình. Và cổng làng
luôn có vị trí quan trọng trong đời sống thực và tinh thần
người Việt.
Theo quan niệm truyền thống, bên cạnh cây đa, giếng nước,
đình chùa, cổng làng vốn có ý nghĩa như một sự chào đón
chân thành, hồ hởi của người địa phương dành cho khách.
Với những người con xa quê lâu, sau một hành trình dài trở
về, chiếc cổng làng luôn mang đến cảm giác yên bình, thân
thương, tạo những giá trị hữu hình vô giá.
Cổng làng xưa – Biểu tượng văn hoá của làng quê Bắc bộ
Cổng làng là một trong những bộ phận cấu thành không thể
thiếu của làng quê cổ truyền vùng Bắc Bộ. Cổng làng thường
tập trung nhiều ở vùng đồng bằng Bắc bộ như ở tỉnh Hà Bắc,
Hà Tây, Nam Định, Hưng Yên, Thái Bình, chủ yếu là những
vùng trồng lúa và có văn hoá làng xã. Có làng giàu, có làng
khoa bảng, có làng nghề... tất cả những cái hay cái đẹp
đều được các vị túc nho viết thành câu đối khắc trước cổng.
Và đó là một phần của văn hóa làng.
Cổng làng hai bên có lũy tre, lại mở ra cánh đồng nhiều gió
mát, dân làng thường đến ngồi chơi và nhiều khi cổng làng
là nơi giao lưu tình cảm, trao đổi thông tin. Một chiếc
cổng bằng gỗ cũ kỹ đã tróc sơn, một cánh hay một chiếc cổng
xây bằng gạch rêu phong đã mọc đầy là hình ảnh quen thuộc
của làng quê Bắc bộ Việt Nam - một biểu tượng thân thương
và đặc trưng của mỗi làng quê truyền thống.
Cổng làng ra đời từ rất sớm, gắn liền với sự hình thành và
phát triển của làng. Ðó là nơi đất lề, quê thói, làng đã đủ
tuổi để cất dựng nên một chiếc cổng. Dù to dù nhỏ, dù xây
bằng gạch hay ghép đá, chiếc cổng làng chính là dấu ấn minh
chứng cho một nếp làng bề thế, chỉn chu. Cửa nhà trong
làng có thể xộc xệch, sơ sài; con người có thể lam lũ,
nhếch nhác nhưng cổng làng thì phải đàng hoàng, chững chạc.
Ðơn giản chỉ bởi cổng làng là bộ mặt, là biểu tượng của làng
quê, phần nào thể hiện được cốt cách của làng, tư chất của mỗi người
dân trong làng.
Cổng làng được dùng như một qui ước không gian hơn là một
giới hạn địa lý của làng. Tam quan cổng làng được dùng như
một qui ước không gian hơn là một giới hạn địa lý của làng.
Nó chẳng ngǎn che được gì về vật lý lẫn thị giác. Vậy mà
làng không cổng chẳng khác gì nhà không cửa. Nó như một dấu
hiệu đánh mốc trong và ngoài của không gian làng - đó là
một phần của văn hóa làng. Cái kiểu đánh dấu này luôn tồn
tại trong tâm thức người Việt. Một buổi giao lưu trong
thiên nhiên, một đám hội hè, hễ có nhiều quần thể khác nhau thì thế
nào cũng dựng cổng, định vị "xác định chủ quyền" dẫu thực tế
chẳng có gì ngǎn cách. Cổng làng như một nghi thức trong
cấu trúc môi trường làng. Có cổng thì ở sát rìa làng, có
cổng thì ở tít đầu đường, chỗ giao với cái quan (đường cái)
và làng.
Vẻ đẹp của cổng làng gắn với nền văn minh lúa nước, mang
tính phác họa, gợi nên những ước vọng của cộng đồng từ đời
này qua đời khác, nơi như có dáng đứng của cha, có vòng tay
của mẹ, nơi tâm điểm để cho ta lượng đo sức mình khi đi xa
và ngược lại nó cũng là nơi hút về những nỗi nhớ, những
hoài niệm về quê hương. Cố giáo sư Từ Chi cho rằng, cổng
làng có vị trí quan trọng trong đời sống thực và đời sống
tinh thần người dân Việt Nam. Bởi lẽ, dù đô thị hóa đến đâu,
nhiều nhà cao tầng hay biệt thự, làng vẫn không thể là phố.
Chưa cần bước sâu vào làng, chưa đặt chân tới sân đình,
đứng trước cổng làng, người xa lạ cũng có thể cảm được phần
nào cốt cách của làng, tư chất của mỗi người dân. Bởi vậy,
cổng làng phải được đặt ở vị trí trang trọng nhất và dễ
nhìn nhất, để người của làng dù có tha phương cầu thực nơi
đất khách quê người, trở về trong một đêm không trăng,
không sao chỉ khẽ chạm tay cũng biết mình đã về tới mái nhà
thân yêu. Phía sau cánh cổng làng chính là sự kết nối cộng đồng gia
tộc làng xã, là những nét chung về phong tục, tập quán, văn
hoá riêng biệt không làng nào giống với làng nào.
Con đường đi qua cổng làng, để lại theo nǎm tháng những lớp
bụi quê vô thường, vô thức, chứng kiến không biết bao
nhiêu sự kiện lớn của làng. Những đám rước, đám hội, thương
nhau cũng hò hẹn ở chốn cổng làng, rồi khi về làm dâu,
bước qua cổng làng về nhà chồng, trở thành một thành viên
trong cộng đồng dân cư... như đều được bắt đầu hay kết thúc
ở đây. Có ai mỗi khi xa quê không ngoái nhìn lại, nhìn lần
cuối tam quan làng mình. Những người con xa xứ, khi về lại quê nhà,
bước qua cổng làng là biết mình đã về tới mái nhà thân yêu, về
được lại mảnh đất chôn rau cắt rốn, chợt thấy lòng ấm lại.
Có cả niềm hân hoan, nỗi bịn rịn ươn ướt trên mi, quệt vào
vách cổng, sướt trên cột cổng. Và có ai mỗi khi xa quê
không ngoái nhìn lại, nhìn lần cuối tam quan làng mình. Với
vẻ trầm mặc ghi dấu ấn văn hóa một thời được xây dựng và
phương trưởng của vùng miền theo thời gian.
Kiến trúc cổng làng châu thổ Bắc bộ
Kiến trúc cổng làng xưa không cầu kỳ, phô trương, mà chỉ
nhằm khẳng định chỗ đứng của mình trong khoảng không gian
làng quê vùng đồng bằng Bắc Bộ, vốn "nửa kín, nửa hở",
trong đó giới hạn của nó chỉ mang tính chất tượng trưng.
Mỗi một cổng làng Việt Nam đều có những nét kiến trúc riêng
làm tâm điểm trong cái bố cục hài hòa với không gian của
con đường làng, lũy tre xanh, cây đa, giếng nước, ao làng
và những cánh đồng lúa chín.
Cổng làng thường được đặt ở vị trí trang trọng nhất, dễ
nhìn thấy nhất và thường thì chỉ có một cửa chính nhưng ở
nhiều nơi, liền với cửa chính còn có hai cửa phụ thấp và
nhỏ hơn, được xây dựng trang trí hài hoà với cổng chính,
tạo thành một thể kiến trúc thống nhất tựa như những ngôi
tam quan của chùa, hay như những bức cửa mã ở đình làng.
Ngày thường, người lạ kể cả dân làng chỉ được qua lại ở hai
cửa ngách, khi làng có việc trọng đại như vua đến thăm, lễ rước
quan trạng vinh qui, hội hè… cửa chính mới được mở ra. Hai bên
cổng làng thường gắn đôi vế đối chữ nho, câu đối có thể do
vua ban nhưng phần lớn là những câu đối do làng lập nên.
Cổng làng thường là một tam quan xây gạch, không to lắm
cũng không lớn lắm. Cầu kỳ thì đắp ngói với một vài họa
tiết dân gian. Ở những chốn quê nghèo, cổng làng mộc mạc.
Hai bên trụ gạch thấp nhỏ, khiêm nhường đỡ một tấm xà cũng
bằng gạch, thế là thành cổng làng. Không một nét vẽ trang
điểm, không màu mè, thậm chí không một nét chữ tên làng,
vậy mà chính những chiếc cổng vô danh như thế lại trở nên thân
thiết gắn bó vô chừng.
Làng khá giả thì cổng lớn, rồng chầu, hổ phục, nóc mái và
đầu đao có khi kết đôi chim phượng. Thời phong kiến, nhiều
khi danh giá của làng quyết định tầm cỡ cổng làng. Ngày ấy,
làng nào có nhiều người đỗ đạt, làm quan thường được vua
ban cho quyền xây cổng lớn nhưng cũng không được vượt quá
những qui định của luật lệ.
Cũng không ít làng dựng hai cổng, gồm cổng tiền và cổng
hậu. Cổng tiền, thường hướng về phía Đông Nam, hướng của
gió lành, hướng của mặt trời mọc, để đón những niềm vui
sinh sôi trong lao động và hạnh phúc, còn cổng hậu, thường
hướng ra phía Tây, hướng mặt trời lặn, để tiễn đưa những
vướng bận buồn rầu.
Cổng làng trước đây còn có cánh cửa, do bà con địa phương
chung tiền dựng bằng gỗ hoặc bằng tre và thường trổ về
hướng Đông Nam, đón gió mát và mặt trời mọc. Cánh cửa ấy mở
ra mỗi sớm, với hy vọng mang vào phúc lộc và niềm vui.
Cổng có người thay nhau canh gác để bảo vệ bình an cho bà
con, khi có biến động.
Cổng làng, đối với người xưa, có sự gắn bó sâu sắc, thể
hiện tình cảm thiêng liêng với quê hương xứ sở. Xưa, Lương
Văn Can, người sáng lập ra phong trào Đông Kinh nghĩa thục
(1907), quê ở làng Nhị Khê, Thường Tín, mỗi khi về quê, qua
cổng làng là cổng Quốc, có đề bốn chữ “Như kiến đại tân”
(Như được đón khách quý), nếu đi xe tay, đến cổng Quốc, ông
đều xuống xe, đi bộ về nhà. Mặc dù theo lệ làng phải đến
gần đền thờ Nguyễn Trãi, gọi là đền ông Khai Quốc, có tấm bia hạ
mã, người đi xe mới phải xuống xe đi bộ qua đền, rồi qua đền lại
được lên xe đi tiếp. Tình cảm sâu nặng với quê hương, trân
trọng các bậc tiên liệt của người quê, mỗi khi qua cổng
làng đáng quý, đáng trọng biết bao. Trải qua bao đời, những
tình cảm ấy, gắn với cây đa, giếng nước, ao làng, gắn với
những ngôi đình, ngôi chùa cổ, đã trở thành hồn quê, mang
sức sống và bản lĩnh của làng, trở thành sức mạnh vật chất,
chống lại kẻ thù, mỗi khi đất nước bị xâm lược. Nhờ vậy mà
ở những thời kỳ dân tộc ta bị mất nước nhưng làng thì không
bao giờ mất. Và lẽ sống của người làng được ghi tạc ở cổng làng,
luôn sáng ngời những giá trị chân, thiện, mỹ. Đó chính là một
diện mạo mang bản sắc độc đáo của văn hoá làng.
Trải qua thăng trầm của thời gian, ngày nay cổng làng -
Biểu tượng văn hoá của làng quê châu thổ Bắc bộ đang dần đi
vào quên lãng bởi tốc độ chóng mặt của sự đô thị hóa. Nhà
tầng với nhiều kiểu cách xây dựng pha tạp đã mọc lên giữa
những làng quê bao đời mộc mạc, bình dị, phá vỡ ít nhiều
cái cảnh quan đã là đặc trưng của nông thôn Bắc bộ suốt mấy
trăm năm.
Dẫu vậy, vẫn còn ở đâu đó tại các làng quê miền Bắc bộ vẻ
đẹp của những kiến trúc cổ của những chiếc cổng làng đa
dạng. Cổng làng Bắc bộ như một lời mời chào thành thật nhất
để ta bước vào với đời sống làng quê. Trong một góc tâm
thức nào đó của người dân, cổng làng vẫn tồn tại như một
biểu tượng thân thương và đặc trưng của mỗi làng quê truyền
thống.
(Theo e-cadao)