Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu
Ni Phật
"Aniccà Vata Sankhàrà
Uppàdavayadhammino
Uppajjitvà Nirujjhanti
Tesam Vùpasamo Sukhoti"
Nghe qua những câu
Phật ngôn này, nếu không thận trọng tìm hiểu theo đúng những nguyên tắc
chân lý ắt chúng ta lầm nghĩ rằng đây chỉ là những câu kinh mà chư Tăng
thường đọc tụng mỗi khi có đám tang chay, không mang ý nghĩa nào quan
trọng. Trên thực tế, đây là những gì dính liền theo với ta như cái bóng,
và rọi sáng cho ta nền tảng chân lý nằm bên trong tất cả chúng sanh và tất
cả các pháp hữu lậu.
Pháp hữu lậu, cũng được gọi là pháp hữu
vi, được dịch từ danh từ Pàli "sankhàrà". Sankhàrà là những gì, vật
chất hay tinh thần, phát sanh và hiện hữu do điều kiện. Có gì trước đó tạo
điều kiện nó mới phát sanh. Trên thực tế, trong thế gian hiện tượng này,
tất cả mọi sự vật đều là pháp hữu lậu, hay pháp hữu vi. Câu Phạn ngữ trên
có thể được phiên dịch như sau:
"Tất cả các pháp hữu lậu đều không bền vững, chúng phát sanh rồi hoại
diệt. Chấm dứt trọn vẹn tất cả các pháp hữu lậu - vốn luôn luôn sanh rồi
diệt - khi cuối cùng được thực hiện, là hạnh phúc tối thượng".
Câu kinh trên dạy rằng "các pháp hữu lậu"
(Sankhàrà Dhamma) là không bền vững, tức vô thường, có trạng thái luôn
luôn biến đổi. Trong khi khởi sanh chúng đã mang theo đặc tánh hoại diệt,
phải chấm dứt. Trong lúc sanh đã có mầm tử. Và chúng ta thấy rằng bất luận
những loại hữu lậu nào tai hại cho tất cả mọi người trong hiện tại, và bất
luận những loại hữu lậu nào làm rơi nước mắt, gây ra cảnh biệt ly buồn
thảm, thất vọng sâu xa và âu sầu phiền muộn, hay bất luận loại hữu lậu nào
làm cho ta phấn khởi hân hoan, vui mừng thỏa thích, làm cho ta yêu thương
và ghét giận và không ngớt băn khoăn lo lắng, phiền não sợ sệt, đối với
tất cả các loại hữu lậu ấy, Ðức Thế Tôn dạy: "Aniccà Vata Sankhàrà",
tất cả các pháp hữu lậu đều không bền vững.
Chúng ta nên nhớ lấy nằm lòng câu Phật
ngôn này. Và trước mắt đây là một thí dụ hiển hiện (đám táng). Chúng ta
đang chứng kiến và xác nhận lời dạy. Chúng ta đang trông thấy rõ ràng,
không thể phủ nhận: Kìa là Ðại Ðức Chao Khun Dhammachedi. Ngài đã viên
tịch, được hỏa táng, và phần tro của Ngài được tôn trí vào một cái lọ.
Lúc sanh thời, Ðại Ðức Chao Khun
Dhammachedi là một vị tỳ khưu giới đức trang nghiêm, công hạnh viên mãn.
Ngài đã thâu đạt và tích trữ nhiều phước báu. Ngài đã có công đào tạo, rèn
luyện và dạy dỗ cho người khác biết phân biệt điều phải lẽ quấy và biến
đổi, làm cho nhiều người trở nên tốt. Ngoài ra, Ngài còn mở mang tốt đẹp,
làm cho ngôi chùa Wat Bodhisomporn này ngày càng thêm thạnh vượng và trong
bốn mươi năm qua, đã săn sóc bảo trì, giữ gìn ngôi Tam Bảo này để cho mọi
người có thể đến đây học đạo và thực hành thiện pháp.
Tuy nhiên, cái chết phải đến, và từ cuộc
sống Ngài đã đi vào trạng thái người chết. Ðiều này làm sáng tỏ câu "tất
cả các pháp hữu lậu (Sankhàrà Dhamma) đều không bền vững, chúng phát sanh
rồi hoại diệt", hoặc nữa, như chúng ta thường nói, "chúng nó CHẾT!" Chỉ
thế thôi.
Vì lẽ ấy tất cả chúng ta nên nhận thức
rằng pháp hữu lậu của Ðại Ðức Chao Khun Dhammachedi và của ta cũng là một
loại như nhau. Các pháp ấy được cấu thành, sanh ra và trưởng thành dưới
hình thức một "sắc" (rùpa, vật chất), một thân hình (kàya, cơ thể vật
chất), một người nam hay người nữ, và dần dần biến đổi theo một tiến trình
biến đổi thiên nhiên từ sơ sanh đến thiếu niên, trung niên và lão niên. Và
đến khi tiến trình biến chuyển thiên nhiên này diễn tiến đến một mức độ
nào thì các pháp hữu lậu kia phải trả qua hiện tượng "hoại" và "diệt" mà
tất cả chúng ta đang mục kích trước mắt và gọi đó là CHẾT.
Chúng ta chỉ đề cập đến loại hữu lậu này,
vì chớ nên nghĩ rằng bất luận những loại hữu lậu nào, như các pháp mà
người ta ước đoán là thiên nhiên, cũng đều là nguyên nhân của những dòng
lệ vô cùng tận cho tất cả chúng sanh trên khắp thế giới. Nơi đây chỉ là
những pháp hữu lậu thuộc loại này. Vậy, đây là loại hữu lậu tối quan trọng
trên thế gian.
Tình thương, sân hận, nỗi buồn ly biệt, ảo
kiến, hạnh phúc, đau khổ và thất vọng, tất cả đều khởi xuất từ loại hữu
lậu này. Ðây là lời dạy của tất cả chư Phật trong quá khứ: "Aniccà
Vata Sankhàrà", các pháp hữu lậu thật không bền vững, chúng phát
sanh rồi hoại diệt.
Nhưng không phải chỉ có những pháp hữu lậu
đã chết mới là không bền vững. Không phải chỉ có những pháp hữu lậu trước
mắt ta kia (Ðại Ðức Dhammachedi) mới là vô thường, mới được sanh ra,
trưởng thành và chết. Chúng ta hãy hướng cái nhìn vào trở lại bên trong
chúng ta, vào bên trong cơ thể của mỗi người chúng ta - mà ta thường xem
là vật sở hữu của ta - vào giờ phút này, trong hiện tại, và nơi đây. Nó
cũng chỉ là một loại "pháp hữu lậu" có bản chất biến đổi cùng một thế ấy.
Nó cũng sẽ trở nên già nua và lụm cụm, không tồn tại lâu dài và sẽ hoại
diệt và tan rã, chắc như vậy, không thể tránh, cũng cùng một lối như các
pháp hữu lậu của Ðại Ðức Dhammachedi.
Tình thương đã phát sanh trong loại pháp
hữu lậu này. Sân hận, ảo kiến cũng phát sanh trong đó và làm nguyên nhân
cho những nỗi buồn vui, hối tiếc, và thâu nhận đau khổ, sầu não v.v... Các
pháp cùng loại này có thể là một người hay một vật, có thể hạng thấp hay
cao, có thể tốt hay xấu và cũng có thể là một người trung bình, đen hay
trắng, đẹp hay xấu - tất cả đều là loại pháp hữu lậu này.
Mong sao tất cả quý vị đang nghe đây, hãy
"Opanayiko", hướng tâm vào bên trong và luôn luôn tự dạy mình. Quý vị chớ
nên nghĩ suông rằng có ai đó chết, có người khác hoại diệt và tan rã, hoặc
có người khác đang chứng nghiệm đau khổ và khó khăn do các pháp hữu lậu
của họ gây nên. Ta phải nhận thức rằng chính loại hữu lậu ấy cũng giống
hệt như loại hữu lậu của chúng ta. Nên hiểu biết rằng cơ thể của chúng ta
cũng y hệt, cùng một loại với cái xác chết nằm đó, cũng cùng một bản chất
như vậy.
Trong tất cả loại loại hữu lậu không có
cái nào quan trọng bằng các pháp cấu thành cơ thể con người và thú vật,
các pháp có bản chất hoại diệt và tan rã theo một tiến trình biến đổi bất
di bất dịch từ sanh đến tử, tử rồi sanh trở lại, triền miên tiếp diễn từ
ngàn xưa. Cùng một thế ấy, chúng ta được sanh, rồi già, bệnh và chết, hết
lần này đến lần khác, lặp đi lặp lại vô số lần trong quá khứ, cũng do loại
pháp hữu lậu này. Chúng ta đã có thương yêu, giận ghét, rơi lụy và cũng
giảm suy sức lực - thân lực và tâm lực - biết bao lần rồi cũng do pháp hữu
lậu này, nhưng chúng ta không thể biết hững kiếp sống quá khứ.
Ðó là vô minh (Avijjà) mà ta đã tạo cho
ta. Chúng ta đã cho phép vô minh bao phủ và che lấp tâm, gây trở ngại
không để cho tâm hiểu được quá khứ và đưa đẩy tâm đi vòng quanh lên xuống,
biến chuyển, và đi nơi khác, biến chuyển nữa và đến đây, mãi mãi đi và trở
thành, sanh rồi tử, tử rồi sanh, dưới sức chi phối của những khuynh hướng
thiện hay bất thiện, theo sự dắt dẫn của nghiệp lực.
Có khi chúng ta được sanh ra dưới hình
thức một con thú, đôi khi là một người. Lúc thì cao sang, lúc là người
thấp hèn, cũng có khi chúng ta phải chịu cảnh tù tội và đau khổ, gian lao,
rồi lại tái sanh làm con của một vị Trời (Deva), hay một vị Phạm Thiên
(Brahma), rồi biến đổi và trở thành một con người. Luôn luôn chúng ta bị
rối loạn và xáo trộn, do vô minh, thành kiến ngã chấp. Ðó là con đường mà
mỗi người trong chúng ta đều đã trải qua, nhưng chúng ta không thể ước
đoán được tại sao, không thể biết được chúng ta đã làm gì trong những kiếp
quá khứ.
Tất cả những gì được đề cập ở phần trên
liên quan đến các pháp hữu lậu. Như vậy, chúng ta phải dùng sự "chú tâm
chân chánh" (Yoniso) - có nghĩa là trí tuệ (Pannà) - để quan sát đúng theo
những nguyên tắc của chánh pháp, và chánh pháp này được hiển hiện biểu lộ
cùng khắp mọi cảnh giới sinh tồn (Loka Dhàtu), tức Tam Giới: Dục Giới, Sắc
Giới, và Vô Sắc Giới. Nói cách khác, sanh già, bệnh, và chết luôn luôn ở
đâu đây, dầu cảnh người hay cảnh thú, trong nhà hay bên ngoài, trong làng
mạc thôn quê hay ở thành thị, dưới nước hay trên mặt đất, trong lòng đất
hay trên không trung, nơi nào có chúng sanh và các pháp hữu lậu thì có
những tiến trình thiên nhiên ấy dính liền theo như cái bóng. Nhưng trong
hiện tại nó chưa đến với ta, chưa đến với pháp hữu lậu của ta, nên ta chưa
lưu tâm đến chúng, ta cũng không màng nghĩ rằng nó sẽ đến với ta hay
không.
Khi người hay vật có liên quan đến ta thì
ta tưởng chừng đó là "Của Ta". Ta gọi những người hay pháp hữu lậu ấy là
cha của ta, mẹ của ta, nhà của ta, đất của ta v.v... Do đó mỗi khi sanh,
già, bệnh, chết, hư hoại v.v... xảy đến cho những người hay vật ấy thì
chúng ta bị xúc động mạnh mẽ. Nói cách khác, khi một người cha, người mẹ,
người anh, người chị, người con, người cháu, hay thân bằng quyến thuộc
bệnh hoạn hay đau khổ thì những người khác cũng cùng nhau chia sớt nỗi khổ
đau ấy. Nhưng, nếu nhìn vào bản chất của thiên nhiên chúng ta sẽ thấy rằng
đó chẳng qua là những sự kiện luôn luôn hiện hữu, và dầu Ðức Thế Tôn có
thị hiện trên thế gian cùng không thì thiên nhiên, tức sanh, lão, bệnh,
tử, biệt ly v.v... luôn luôn vẫn có. Ðó là phần số của chúng sanh và các
pháp hữu lậu, là cái gì vẫn có và tồn tại từ nghìn xưa, là bản chất của
thiên nhiên.
Tất cả chúng ta hôm nay đều thấy điều ấy
xuyên qua cái lọ đựng tro của Ðại Ðức Chao Khun Dhammachedi, và đó chỉ là
cái lọ đựng tro của một người chết. Ngài đã viên tịch, và có danh dự được
tôn trí trong một cái lọ. Nhưng còn ta, sẽ ra sao? Dầu có được đựng trong
cái lọ hay không, khi đời sống chấm dứt thì chỉ còn là một xác chết, hay
một con vật chết. Thể xác của con vật kia có thể nằm trong một miếng chả
cá, hoặc trở thành nước mắm, bởi vì đó chỉ là một chúng sanh "chết". Ngoài
chợ, chúng ta thấy dẫy đầy những chúng sanh sống và những chúng sanh đã
chết lẫn lộn, giống hình như chợ là nghĩa địa của những chúng sanh từ các
nơi trong xứ.
Nếu chúng ta quan sát, suy tư về câu
chuyện sanh tử, hãy "Opanayiko" - nhìn vào bên trong - để quan sát những
pháp hữu lậu mà chúng ta cùng sống với nó trong hiện tại và đang chăm sóc
bảo trì. Ta sẽ thấy một cách chắc chắn rằng nó cũng cùng một loại với tất
cả chúng sanh và các pháp hữu lậu ở khắp nơi.
Vì lẽ ấy, những danh từ "Aniccà Vata
Sankhàrà", tất cả các pháp hữu lậu đều vô thường, hình như thích
nghi với mọi thời gian và mọi nơi chốn. "Nơi chốn" là thế gian tràn đầy
sanh, lão, bệnh, tử, khổ đau, sầu muộn, và cũng tràn đầy cảnh huống tàn
phá, chết chóc mà chúng sanh và các pháp hữu lậu phải chia sẻ. Ðó là cái
mà chúng ta gọi là "nơi chốn". Giáo Pháp (Dhamma) dạy ta theo dõi lần vào
những điều kiện luôn luôn nằm ở bên trong trạng thái đổi thay, không chắc
chắn, không vững bền, tan rã và chấm dứt, hoặc phát sanh rồi hoại diệt. Ðó
là điều luôn luôn xảy đến mọi người. Hơn nữa, câu Phật ngôn trên cũng luôn
luôn thích hợp với mọi thời đại, không phải chỉ trong ngày hôm nay hay
ngày mai, mà suốt cả nhiều a-tăng-kỳ kiếp (aeon). Chúng ta nên nhận định
rằng trong khi có những chúng sanh và vật hữu lậu không bền vững và luôn
luôn đổi thay thì những lời dạy của Ðức Phật vẫn là chân lý, là luôn luôn
sẽ còn là chân lý. Và những lời ấy là, "Svàkkhàta Dhamma", những lời dạy
đã được giáo truyền một cách thích nghi, đúng theo những nguyên tắc của
chân lý, y như những nguyên tắc chân lý ấy là vậy.
Người có suy niệm về các pháp hữu lậu và
thấy rằng các pháp ấy không bền vững, có đặc tánh đau khổ và vô ngã, rằng
các pháp hữu lậu là những vật mà bản chất là phải hư hoại và tiêu diệt,
trong đó không thể tìm ra mảy may phần nào có "thực chất", người ấy sẽ
không hờ hững lãng quên chính cái pháp hữu lậu của mình. Dầu là của một em
bé, một thanh niên, một tráng niên, hay một ông lão, đó chỉ là một khối
vật chất có đặc tánh phải chấm dứt và tan rã cùng một thế ấy. Tất cả đều
cùng một loại hữu lậu. Một em bé chỉ là hữu lậu, một thanh niên hay một
thiếu nữ chỉ là hữu lậu, người đứng tuổi chỉ là hữu lậu, người già cũng là
hữu lậu. Tất cả đều cùng một loại như nhau.
Các pháp hữu lậu này luôn luôn mang theo
dính liền với nó khuynh hướng tan rã, biến thể và tiêu diệt. Không thể nói
từ lúc nào các pháp hữu lậu này bắt đầu tiến trình biến đổi, vì đó là
những tiến trình biến đổi thiên nhiên.
Nếu tất cả chúng ta chuyên cần suy niệm
như vậy, phương cách này sẽ dẫn dắt chúng ta phát triển các "thiện pháp"
trong tâm như: Biết rằng tất cả các pháp hữu lậu đều vô thường (Anicca),
không bền vững, chúng ta sẽ dốc lòng đi tìm cái gì bền vững thường còn
hơn; Biết rằng tất cả các pháp hữu lậu đều mang theo dính liền với nó tánh
chất đau khổ (Dukkha), chúng ta sẽ quyết tâm tìm cái gì hạnh phúc vững bền
hơn; Biết rằng tất cả các pháp đều vô ngã (Anattà), chúng ta sẽ đi tìm cái
gì thật sự có thực chất, cái gì "có thật", trong ý nghĩa là tự nó hiện
hữu, không biến đổi, hơn là những sự vật gọi là thiên nhiên trong thế gian
hiện tượng này.
Nếu là những người biết suy tư chúng ta sẽ
có thể thấu đạt chân giá trị của những sự vật "không có thực chất" và cùng
lúc, phát triển trong tâm những gì thật sự hiện hữu và vững bền tồn tại,
không biến đổi, những gì thật sự "có thực chất".
Ðức Thế Tôn dạy: "Aniccà Vanta Sankhàra",
các pháp hữu lậu đều vô thường, nhưng chúng ta chớ nên lầm tưởng rằng chỉ
có những hữu lậu đã hoại diệt, tan rã, mất đi mà ta đã thấy hay đã nghe
nói, là vô thường. Ta nên nhận thức rõ ràng rằng cái "bản chất thật sự"
của những hữu lậu mà ta đã thấy hay nghe nói là hoại diệt và mất đi là
chính ta, ngay trong hiện tại! Nói cách khác, các pháp hữu lậu của người
đã chết và của ta cũng cùng một loại. Nó diễn tiến theo một tiến trình, đi
một đường, theo một hướng, và đều tiến dần đến một nơi: SỰ CHẾT. Khi thể
xác này chết thì cái tâm - vẫn không chết - đi đến một nơi khác để được
tái sanh như một hữu lậu mới, vừa phát sanh. Tuy nhiên, cái hữu lậu mới,
vừa phát sanh do cái tâm của kiếp sống trước, dầu có những đặc điểm như
thế nào, cũng tùy thuộc nơi nghiệp đã tạo.
Danh từ "Nghiệp" (Kamma) ở đây có nghĩa là
hành động, việc làm. Hành động hay việc làm tốt là "thiện nghiệp" (Kusala
Kamma), hành động xấu là "bất thiện nghiệp" (Akusala Kamma), và những việc
làm không có tánh cách tốt hay xấu là "nghiệp không thiện cũng không bất
thiện" (Avyàkata Kamma). Người tạo nghiệp là chủ của cái nghiệp của mình
và chính người ấy chịu trách nhiệm về những hậu quả, lành hay dữ, hạnh
phúc hay khổ đau, của mình. Như vậy, quý vị phải nhận thức rõ ràng rằng
quý vị, và chính quý vị chớ không ai khác, phải gánh chịu trách nhiệm về
những hậu quả lành hay dữ, hạnh phúc hay đau khổ của quý vị và như thế,
trong mỗi trường hợp, mỗi hành động.
Vì lý do ấy, tất cả chúng ta đều khác
nhau. Tất cả chúng ta được sanh ra dưới hình thức con người, được gọi là
người, và trên phương diện này chúng ta giống nhau vì tất cả là người. Mặc
dầu vậy, tâm tánh của chúng ta, tác phong, thói quen, cử chỉ, tri kiến,
mức độ khôn khéo, khuynh hướng tốt xấu, trí óc thông minh sáng suốt hay
ngu muội tối tăm, giàu có sang trọng hay khốn khổ nghèo nàn, sức khỏe dồi
dào hay ươn yếu bệnh hoạn v.v... tất cả đều khác nhau. Dầu có sống chung
với nhau trong một thành phố, một nơi chốn, hay một nhà đi nữa, đời sống
của mỗi người mỗi khác, hạnh phúc và đau khổ, trí não minh mẫn hay ngu độn
cũng không đồng đều. Ðức Thế Tôn dạy rằng đó là quả trổ sanh tương xứng
với những nhân mà ta đã gieo, hay những nghiệp mà ta đã tạo ở một nơi nào,
ngày nào, tháng nào, năm nào, kiếp sống nào. Người hành động, tức người
tạo nghiệp, đương nhiên phải là sở hữu chủ của cái nghiệp của mình, - và
những quả trổ sanh do những nghiệp ấy - hạnh phúc hay đau khổ - đương
nhiên là số phần của mình.
Ta phải thọ nhận "hạnh phúc" hay "đau khổ"
tùy theo nghiệp đã tạo, bởi vì ta phải gánh chịu trách nhiệm về tất cả
hành động, hay nghiệp, đúng theo những định luật thiên nhiên, không cần
phải có một nhân vật nào điều khiển hay sai khiến, bắt ta phải chịu trách
nhiệm về những hành động đã làm, những nghiệp đã tạo. Dầu ta muốn phản đối
hay cưỡng lại cũng không được. Thí dụ như chúng ta có thể chịu gian lao
khổ nhọc, lòng đầy phiền não, sầu lụy, lo âu, hay chúng ta có thể nghèo
đói, rách rưới và thiếu thốn mọi nhu cầu khẩn thiết, nhưng chúng ta không
thể nhờ ai khác ở vào trạng thái ấy thay thế mình, gánh chịu hậu quả của
nghiệp bất thiện mà mình đã tạo trong quá khứ thế mình, không thế được.
Nghiệp của chính chúng ta đã tạo thì chính chúng ta phải gánh chịu hậu
quả, không có cách nào khác.
Cùng một thế ấy, một người thông minh sáng
suốt, giàu có sang trọng, khỏe mạnh cường tráng, người có đời sống an lành
thoải mái, tâm trí thơ thới yên vui, người ước mong điều gì thì điều ấy
đến, giống như có chư Thiên hay một quới nhân nào từ trên trời ban rải
xuống, người đi đâu cũng được đón tiếp nồng hậu, được quý mến tôn trọng và
được chăm sóc đầy đủ, người cao sang quyền quý, trong nhà có nhiều tôi
trai, tớ gái phụng sự cho mình, tiền bạc của cải dồi dào v.v..., người ấy
cũng không thể cho ai khác ở vào chỗ của mình để thọ hưởng những quả phúc
ấy, bởi vì mỗi người chúng ta phải chịu trách nhiệm về hậu quả của cái
nghiệp mà chúng ta đã tạo.
Ðó là Lý Nghiệp Báo, và sở hữu chủ của
nghiệp là "cái tâm hay biết". Như vậy, cái tâm điều khiển thể xác quả thật
vô cùng quan trọng trên cả hai phương diện, đời và đạo. Ta không nên hờ
hững dể duôi, lãng quên, không chú ý đến cái tâm. Trái lại, phải cố gắng
uốn nắn, rèn luyện tâm theo chiều hướng tốt, theo đường lối tốt, cho đến
khi nó trở thành tốt như một thói quen, tốt một cách hồn nhiên. "Ðường lối
tốt", theo ý nghĩa của thế gian (đời), là tự làm cho mình trở thành một
công dân tốt, và theo ý nghĩa của Giáo Pháp (đạo), là quyết tâm tiến xa
trên con đường thành đạt các thiện pháp, tiến xa trong pháp học, pháp
hành, và tạo thiện nghiệp. Ðó là đường lối chân chánh, chánh đạo, để rèn
luyện tâm linh, hướng tâm về đời sống đạo hạnh thanh cao, làm cho những
tâm tánh tốt đẹp trở thành bản chất tự nhiên gắn liền với mình.
Khi bẩm tánh của chúng ta được rèn luyện
và uốn nắn theo chánh đạo cho đến khi nó trở thành quen thuộc với đường
lối tốt đẹp ấy, phẩm hạnh thanh cao thấm nhuần và phát hiện trong tâm là
kết quả đương nhiên của những hành động tốt mà ta đã làm. Bất luận điều gì
mà ta ước mong, điều ấy sẽ đến với ta như ý nguyện, bởi vì những gì mà ta
muốn thành đạt là tài sản sự nghiệp của những hành động mà ta đã làm, đúng
như lời Phật dạy, "chúng sanh là sở hữu chủ của cái nghiệp của mình", và
như vậy, dầu còn nhớ hay không những hành động ấy, ta không thể ngăn cản
hay xóa bỏ, tiêu diệt hậu quả của nó.
Cũng như khi còn đi học, ta học hỏi và
thâu nhận kiến thức nhiều loại, nhưng đến nay ắt ta khó còn nhớ lại rõ
ràng điều này đã học lúc nào, hay điều kia đã lãnh hội ra sao, từ thủa bắt
đầu cắp sách đến trường. Ta còn nhớ được chăng trong một ngày nào đó mình
đã học được bao nhiêu môn học, và đã học được những gì với bao nhiêu ông
thầy v.v...? Từ lúc mới đến trường ta bắt đầu học mặt chữ, rồi ráp lại,
đánh vần, làm toán cộng, toán trừ, dần dần đến khi thâu thập được những
kiến thức ngày hôm nay. Chúng ta đã học những điều ấy trong bao nhiêu
ngày? Trong một ngày nào đó ta sẽ thâu thập được bao nhiêu kiến thức? Có
lẽ trong chúng ta không mấy ai biết rõ điều ấy, mặc dầu chính chúng ta đã
học, đã trải qua. Tuy nhiên, cũng không thể phủ nhận là ta đã có những
kiến thức ấy. Chẳng hạn như bây giờ ta nghĩ đến chữ "A", tức thì chữ "A"
đến trong trí ta. Nghĩ đến chữ "B", tức khắc có chữ "B" trong trí. Bất
luận nghĩ đến điều gì đã học, đã biết, thì tức nhiên có điều ấy đến ngay.
Nhưng có lẽ ta không còn nhớ giọng nói của ông thầy, hay ông thầy nào đã
dạy, bao nhiêu ông thầy đã dạy ta điều ấy v.v... Không nhớ lại được không
phải là điều quan trọng, nhưng ắt chúng ta khó phủ nhận rằng tất cả những
kiến thức mà ta đã học hỏi với thầy đến nay vẫn còn đâu đó trong trí cho
nên khi nghĩ đến thì nó phát hiện ngay trong trí như ta muốn.
Những công đức mà ta đã tạo và những phẩm
hạnh mà ta đã trau giồi, phát triển, cũng dường thế ấy, không cần phải nhớ
từng chi tiết những điều lành nào đã làm, cũng không cần phải nhớ ta làm
điều ấy bao nhiêu lần, trong bao nhiêu kiếp sống, hay trong bao nhiêu cảnh
giới sinh tồn ta đã rèn luyện tâm tánh. "Hậu quả" của những điều ấy phải
phát hiện trong tâm chúng ta, cũng như kiến thức mà ta đã thâu thập vẫn
còn đó, và sẽ phát hiện khi ta nghĩ đến.
Sau đây là một vài nguyên tắc về lý nghiệp
báo, vì chính lý nghiệp báo dẫn dắt chúng sanh vận chuyển trong vòng luân
hồi. Người kia đã tạo công đức và trau giồi phẩm hạnh thanh cao trong đời
sống. Sau khi thân hoại mạng chung, người ấy sẽ tái sanh vào một cảnh giới
tốt, nhàn lạc, và tất cả những gì đến với người ấy - giống như tài sản sự
nghiệp riêng của mình - đều tốt đẹp, đáng được ưa thích, do nghiệp lành đã
tạo. Mặc dầu trong khi thọ hưởng quả lành ấy, người kia không thể còn nhớ
loại nghiệp nào mình đã tạo, đã tạo lúc nào, ngày nào, bao nhiêu lần,
trong trường hợp nào. Dầu nhớ hay không cũng vậy, nhân đã gieo, khi đúng
duyên kỳ thì quả đương nhiên trổ. Người kia tạo nghiệp lành, tức nhiên quả
lành sẽ đến, và người ấy là sở hữu chủ của tất cả những gì tốt đẹp - như
con cái, vợ hay chồng, thân bằng quyến thuộc v.v..., tất cả những người
thân thuộc gần gũi đều là những người tốt. Trong đời, người ấy sẽ gặp
nhiều người tốt. Ðó là do thiện nghiệp đã tạo.
Còn người nọ chỉ tạo bất thiện nghiệp
trong đời. Cũng giống vậy, dầu có nhớ hay không điều gì mình đã làm, người
ấy cũng phải gánh chịu hậu quả của hành động mình. Những gì sẽ đến với
người ấy đều bất hạnh, hư hỏng. Thí dụ như là một người trai trẻ chọn vợ.
Thấy một thiếu nữ đoan trang, tánh tình hiền hậu, con nhà đạo đức v.v...
nghĩ rằng đây sẽ là một người vợ hiền. Tuy nhiên, do bất thiện nghiệp của
anh đã tạo trong quá khứ, người con gái ngoan trong nhà hiền lương đạo đức
kia có thể đổi tánh, trở thành người vợ trắc nết, hung dữ và con cái trong
nhà hư hèn, buông lung, khó dạy. Những người khác, đàng hoàng tử tế, nhưng
khi đến gần người ấy thì trở nên xấu xa, dữ tợn. Của cải ở với người khác
thì tốt mà về đến tay người ấy thì trục trặc, không xài được. Tất cả những
điều bất hạnh ấy đều do nghiệp bất thiện mà người ấy đã tạo trong quá khứ.
Ta cần nên biết nguyên tắc chánh yếu dạy rằng chính ta là sở hữu chủ, là
người chịu trách nhiệm về số phận của ta. Nếu hành động bất thiện thì
những gì đến với ta đều trở nên hư xấu. Không nên phiền giận hay oán trách
những sự việc bên ngoài, trong khi chính ta là chủ của cái nghiệp của ta
chớ không phải ai khác. Và thật sự chủ ở đây là cái tâm bên trong thể xác.
Chính tâm thúc đẩy, đưa đến hành động, chính tâm ngự trị, sai khiến thể
xác.
Ðó là câu chuyện nghiệp báo. Do định luật
nghiệp báo chúng sanh lẩn quẩn lanh quanh trong vòng luân hồi, chuyển biến
xuyên qua sanh, già, bệnh, khổ, chết chóc triền miên, hết kiếp sống này
đến kiếp khác.
Trong vòng lẩn quẩn lanh quanh dài dẳng
ấy, khi chúng ta đã cố gắng tự uốn nắn, tự rèn luyện, tạo công đức và trau
giồi phẩm hạnh - tức tạo thiện nghiệp - và tiến đến một hoàn cảnh hữu hạnh
nào, đến mức độ mà tâm tánh trở thành quen thuộc với chánh đạo, ta sẽ
giống như người khách đi đường, nhắm đến một nơi nọ, và cuộc đi có thể
suôn sẻ dễ dàng. Muốn đi từ nơi này đến chỗ nọ, người có đầy đủ tiền của
sẽ hoàn tất cuộc hành trình của mình một cách thoải mái, tiện nghi, và mỗi
khi dừng nghỉ thì có nhà cao cửa rộng, giường ấm nệm êm, vật thực dồi dào,
muốn cần chi cũng có. Nhưng người ít tiền thiếu của sẽ trải qua, cũng đoạn
đường ấy, một cách khổ cực gian lao, đi đứng với những phương tiện nghèo
nàn eo hẹp, dưới ánh nắng nóng bức, khi ngừng lại một nơi nào thì đã mệt
nhừ mà không có thức ăn thức uống, ngủ thì phải chịu cảnh màn trời chiếu
đất, muỗi mòng chích đốt, và chẳng may gặp trời mưa giống tố thì cũng phải
cam chịu số phận hẩm hiu của mình. Như vậy, cùng một đoạn đường, người có
sẵn tiền của sự nghiệp sẽ đến nơi đến chốn sớm sủa và dễ dàng hơn.
Người dồi dào phong phú đi đâu cũng được
thoải mái, tiện nghi, có người chăm lo săn sóc, bởi vì tiền của, vòng vàng
châu báu có mãnh lực đưa khách lữ hành đến nơi một cách suôn sẻ, và những
sở hữu quý báu ấy phải được tạo nên và tích trữ bằng cách chân chánh thực
hành Giáo Pháp. Người nghèo nàn thiếu kém dầu đi đâu cũng gặp khó khăn.
Trên bước đường, cũng cùng một đoạn đường, họ thiếu cả mọi phương tiện, họ
gặp đủ mọi trở ngại, chịu đủ mọi gian khổ và chắc chắn phải mất thời gian
khá lâu để đến nơi đến chốn.
Cuộc hành trình trong vòng luân hồi của
chúng ta cũng dường thế ấy. Nhiều người sanh ra ở đây mà không bao giờ
biết đến hạnh phúc, không bao giờ khỏi thiếu thốn. Họ chỉ thấy đau khổ
(Dukkha), nghèo đói cơ hàn, và chỉ sống ngày nào hay ngày nấy, ăn bữa sáng
lo bữa trưa, làm lụng thì cực nhọc, khó khăn và hèn hạ mà không khi nào có
đủ để đáp ứng những nhu cầu khẩn thiết thường nhật. Như vậy mà họ không
thể nghĩ ra một lối thoát, vì tâm trí họ tối tăm, mà họ cũng không có
phương tiện nào để trau giồi. Rốt cùng họ phải đành chịu... và những người
như thế ấy, ta có thể thấy rất nhiều, trông họ rất đáng thương hại. Cũng
cùng như tất cả mọi người mà họ phải chịu ở trong một trạng thái hết sức
cơ cực.
Bên cạnh những người ấy có những người
khác, tiền rừng bạc bể, giàu có muôn hộ. Cũng là người giống như người
nghèo khổ kia, tại sao họ lại được cao sang quyền quý, của cải dồi dào?
Trước tiên, ta không thể khinh khi ai vì họ nghèo, cũng không thể ca ngợi
ai chỉ vì họ giàu; bởi vì nghèo hay giàu đều do nghiệp đã tạo của mỗi
người. Chính chúng ta cũng mang theo với ta một cái nghiệp.
Nếu muốn trở thành người nghèo nàn thiếu
thốn, hạng người đáng thương hại như được kể trên thì ta cứ tạo những loại
nghiệp như những người ấy tạo, cũng sống như họ sống. Nhược bằng muốn trở
nên giàu sang sung túc thì ta phải cố gắng tự trau giồi và tự phát triển,
tự biến đổi mình thành người có nhiều đức tánh dũng mãnh, người kiên tâm
trì chí, siêng năng cần mẫn, có khả năng nỗ lực mỗi ngày để tạo dựng tài
sản sự nghiệp. Chừng ấy ta sẽ trở thành người tốt và giàu có.
Tất cả những gì mà ta thành tựu trên thế
gian này đều do sinh hoạt của tâm. Vì lẽ ấy tâm rất quan trọng. Chính sinh
hoạt tâm linh giải thích tiến trình lẩn quẩn quanh quần của vòng luân hồi
(Vatta Samsàra) và sự khác biệt nhau giữa chúng sanh, tương ứng với những
khuynh hướng tâm tánh và phước báu tích trữ của mỗi người
(Punnàdhisambhàra).
Một vài người, nhờ khuynh hướng tâm tánh
và phước báu tích trữ, có được đời sống dễ dàng, tránh được nhiều xáo trộn
phiền phức và lúc nào, bất luận ở vào hoàn cảnh nào, cũng được an lành.
Người ấy sẽ ít đau khổ (Dukkha), ít gặp khó khăn và được nhiều hỗ trợ,
nâng đỡ trên con đường tiến đến mục tiêu cứu cánh là Niết Bàn.
Như trường hợp của Ðức Phật, khi thời kỳ
đến để Ngài sanh vào hoàng tộc Thích Ca và trị vì thành Ca Tỳ La Vệ thì
Ngài không gặp trở ngại khó khăn nào. Ngày không thiếu gì và có cuộc sống
dồi dào sung túc, đầy đủ những lạc thú trên đời, kẻ hầu người hạ và sống
trong tình thương nồng ấm của tất cả mọi người. Sau khi từ bỏ đền đài cung
điện và làm một đạo sĩ, Ngài chuyên cần nỗ lực thực hành đường lối tạo
phước và trau giồi công hạnh cho đến ngày thành đạt Ðạo Quả tối tượng và
trở nên vị giáo chủ vĩ đại của thế gian. Sau đó, dầu ở bất luận nơi nào,
Ngài cũng được chư Thiên kính cẩn lễ bái và hết lòng kỉnh mộ. Nói rằng
được như vậy là nhờ quyền uy và năng lực của một vị Phật là sai lầm. Trái
lại, đó là quả phúc của giới đức. Chí đến sự chứng ngộ Ðạo Quả của Ngài,
được thành tựu mỹ mãn cũng nhờ phước báu tích trữ và công hạnh viên dung
của Ngài. Cùng thế ấy, người nào trau giồi trí tuệ (Pannà), thận trọng
quán xét và phân biện sự vật, rèn luyện tâm trí, nếu sanh vào cảnh người,
người ấy sẽ có cuộc sống thoải mái an lành, đủ ăn đủ mặc, đủ ở, đủ mọi nhu
cầu thường nhật v.v... Người ấy được vợ hay chồng, con cái, bè bạn và giới
thân cận quý mến chiều chuộng, chăm sóc chu đáo, mọi người đều hiền lương
và có thể tin cậy. Tất cả những phước lành ấy là ảnh hưởng của nghiệp.
Trong khi chúng ta thênh thang trong vòng
luân hồi, những trợ lực vật chất và tâm hồn thơ thới ấy đến với ta do năng
lực của thiện nghiệp. Khi ảnh hưởng của những khuynh hướng tâm tánh được
thành tựu viên mãn chúng ta sẽ có đủ khả năng để khắc phục các pháp hữu
lậu cùng với những đặc tánh sanh, lão, bệnh tử, dính liền với nó.
Về những danh từ cuối cùng của câu Phật
ngôn, "Tesam Vùpasamo Sukho", có nghĩa hoàn toàn chế ngự và
chấm dứt tất cả các pháp hữu lậu là hạnh phúc tối thượng. Pháp hữu lậu ở
đây có thể được xem là có hai loại. Trước tiên là chế ngự và chấm dứt các
pháp hữu lậu ở bên ngoài, "ngoại hữu lậu", tức cơ thể vật chất của con
người. Sau đó là chế ngự và chấm dứt "nội hữu lậu", những suy tư và tưởng
tượng của tâm. Và các pháp hữu lậu bên trong này khởi phát do năng lực
hùng hậu của vô minh (Avijjà). Ngoại hữu lậu, tức cơ thể vật chất, phát
sanh do nội hữu lậu, tức suy tư và tưởng tượng của tâm. Và nội hữu lậu bắt
nguồn từ vô minh hùng mạnh, tức ảo kiến, không thấy đúng sự thật.
Mặc dầu đã lê bước xuyên qua vô số kiếp,
sanh, lão, bệnh, tử, chúng ta vẫn chưa có thể thoát ra khỏi vòng quanh
(Vatta) sanh tử triền miên ấy. Ðức Phật dạy rằng đó là do vô minh (Avjjà),
ảo kiến liên quan đến kiếp sinh tồn và sự hiểu biết về chính ta.
Có thể chúng ta đã có cảm nghe đau khổ và
hạnh phúc. Chúng ta có thể đã biết, đã thấy và đã chứng nghiệm, nhưng
chúng ta vẫn chưa tìm ra được con đường để vượt thoát ra khỏi vòng lẩn
quẩn luân hồi đầy hạnh phúc và đau khổ này. Cơm trắng gạo thơm thì ngon.
Nhưng, cũng gạo ấy, mà nấu pha lẫn với trấu thì hẳn không còn ngon nữa.
Thế gian hạnh phúc và khổ đau lẫn lộn này cũng dường thế ấy!
Ðức Thế Tôn gọi thế gian này là "Loka
Sankhàradhamma", thế gian hữu lậu, hàm ý "Aniccà Vata Sankhàrà",
không bền vững, bất ổn định, luôn luôn chuyển biến.
Một em bé mới sanh. Mọi người đều hân
hoan, vui vẻ, "em bé này thật xinh, em bé ngoan, em bé có gương mặt hiền
lành v.v... và mọi người đều hy vọng, thấy những dấu hiệu rằng em bé sẽ dễ
dạy, thông minh, biết thương cha mẹ v.v... Em bé vào đời với tất cả phước
lành cho một thế gian thâu hẹp. Nhưng, khi trong nhà có người qua đời thì
tất cả mọi người đều thất vọng sâu xa, phiền não, sầu muộn không sao kể
xiết. Nguyên nhân của những cảm xúc vui buồn mạnh mẽ ấy là vô minh
(Avijjà), không hiểu biết thực chất của pháp hữu lậu.
Trong trường hợp em bé ra đời, nếu không
thận trọng suy tư về tất cả những sắc thái khác nhau của nó thì ta chỉ
thấy khía cạnh đẹp đẽ vui tươi mà không thấy phần đen tối. Ðiều này chứng
tỏ rằng ta chỉ nhìn vấn đề một cách phiến diện, không thích nghi, không
đúng thực tại. Do đó, phiền muộn đến, và niềm vui lúc ban đầu không sánh
bằng, hay không thể bù trừ vào nỗi thất vọng và âu sầu sau cùng.
Khi một ước vọng được thỏa mãn ta bắt đầu
cảm nghe vui sướng. Nhưng sự vật biến đổi, trở thành một cái gì khác, trở
nên hư hỏng, hoại diệt. Chừng đó thất vọng và sầu muộn phát khởi. Sau
cùng, những gì mất mát làm xúc động mạnh mẽ và sâu đậm hơn là tình trạng
thỏa mãn lúc ban sơ. Cái được và cái mất không đồng đều, vì ta không suy
tư chân chánh. Nhưng một người hiểu biết không suy tư như thế.
Một người đã thâm nhiễm những nguyên tắc
của Giáo Pháp sẽ suy tư và thấy rõ lợi ích nào đến với mình, cùng lúc hiểu
biết tất cả sắc thái của nó. Do đó, người ấy không bị ngạc nhiên, không
thất vọng âu sầu. Bởi vì, khi các pháp hữu lậu phát hiện lên thì ta phải
nhìn thấy cái bóng theo dính liền với nó - tức sự hư hoại, diệt vong, tan
rã và chấm dứt. Sớm hay chầy, chắc chắn rằng những pháp hữu lậu loại đó
(Sankhàrà Dhamma) sẽ hư hoại và chấm dứt. Ðối với những sở hữu mà ta đã
thâu đạt và mất đi, phải dựa trên căn bản lý trí mà suy tư để làm giảm
thiểu niềm vui nỗi khổ, không để bị tràn ngập.
Những pháp "ngoại hữu lậu" (Rùpa Sankhàrà,
sắc hữu lậu), cơ thể vật chất, phát sanh do những pháp "nội hữu lậu" (Nàma
Sankhàrà, danh hữu lậu) những suy tư và tưởng tượng trong tâm. Và các pháp
"nội hữu lậu" phát sanh do vô minh.
Khi tu tập theo đường lối Giới-Ðịnh-Tuệ
(Sila, Samàdhi, Pannà) đến mức độ thật sự thuần thục và vững vàng, chắc
chắn ta có thể trông thấy thực chất của vòng quanh (Vatta) luôn luôn xoay
chuyển cùng với cái tâm của mình - tức phá tan vô minh.
Ðể tìm hiểu nguyên nhân của cuộc đi triền
miên quanh quẩn bất định Ðức Phật dạy rằng trước tiên phải cố gắng bố thí
(Dàna). Bố thí dưới nhiều hình thức, từ đức khoan dung đại độ, không cố
chấp những lỗi lầm của người khác, và ban bố tình trạng an toàn đến tất cả
mọi người (Abhaya dàna) đến việc cho ra một vật, một món đồ. Cho ra nhiều
hay ít không quan trọng. Ðiều quan trọng là nên lặp đi lặp lại, cho ra
thường xuyên. Kế đó phải trang nghiêm trì giới. Dầu ngũ giới, bát quan
trai giới, sa di giới hay tỳ khưu giới, phải thật lòng và hoan hỷ nghiêm
trì một cách trong sạch. Ðó là phương tiện để đối trị vô minh. Pháp hành
thứ ba là Ðịnh (Samàdhi), làm cho tâm trở nên vắng lặng, an tĩnh. Cuối
cùng là Trí Tuệ (Pannà), từ mức độ căn bản đến cao độ và suốt đến tuyệt
đỉnh. Ðây là phương tiện để tiêu trừ toàn thể mọi lãnh vực của vô minh,
tận diệt vô minh một cách trọn vẹn.
Khi đã thực hành đầy đủ Giới-Ðịnh-Tuệ,
vòng quanh lẩn quẩn (Vatta) không còn chỗ nào để ẩn núp vì nó không thể
lẩn trốn trong rừng thẩm hay trên núi cao mà chỉ ở tại đây, kết hợp với
tâm của chúng ta. Bởi vì chúng ta là những người lang thang lê bước đi bất
định trong vòng sanh, bệnh, già, chết. Về phương diện này không có ai
thua, không ai bị thất bại, và không ai hơn ai cả. Trước sanh, lão, bệnh,
tử, phân tán, biệt ly, hoại diệt, kẻ ở người đi và các pháp hữu lậu, tất
cả chúng ta đều đồng đẳng, bằng nhau trong cuộc đi vòng quanh bất định.
Tại sao chúng ta không thể trông thấy cái
bánh xe đã xoay chuyển, đưa đẩy chúng ta vòng quanh lui tới triền miên,
luôn luôn biến đổi chúng ta và làm cho chúng ta sanh rồi tử, tử rồi sanh
trở lại, mãi mãi lặn hụp trong biển trầm luân dẫy đầy đau khổ, hết
a-tăng-kỳ kiếp này đến những a-tăng-kỳ, những đại kiếp khác? Khi trí tuệ
được trau giồi đến mức độ có đủ khả năng trạch quán chính xác và thâm sâu
để nhìn thấy cái tâm, vốn là sở hữu chủ "bánh xe" (Vata cakra) tràn đầy vô
minh (Avijjà) đang quây quần chúng ta - và thấy một cách rõ ràng - chừng
ấy ta có thể dùng trí tuệ thật sự thuần thục để phá tan bánh xe.
Khi trí tuệ diệt trừ bánh xe- bánh xe đây
cũng chính là cái tâm đầy vô minh - thì các pháp hữu lậu tự nhiên tự nó
chấm dứt. Cũng như cái cây đã bị nhổ lên cả gốc lẫn rễ thì không cần phải
chặt nhánh, bẻ chồi, hay suốt lá, tự nhiên tự nó sẽ héo khô và chết dần.
Dầu là pháp "ngoại hữu lậu", cơ thể vật chất, hay "nội hữu lậu", những suy
tư và tưởng tượng về quá khứ hay vị lai, tạo thiện hay bất thiện nghiệp,
tất cả đều phải hoại diệt và chấm dứt dần dần. Bởi vì vô minh, ông chủ của
bánh xe, cũng là ông chủ của các pháp hữu lậu, nguyên nhân mọi đau khổ, đã
bị tận diệt, đã hoàn toàn không còn trong tâm nữa, thì không còn gì để gây
đau khổ phiền muộn. Chỉ còn "BUDDHO", sự giác ngộ viên mãn, tâm tuyệt đối
thanh tịnh. Ðây chính là "Tesam Vùpassamo Sukho", khắc phục
và chấm dứt hoàn toàn các pháp hữu lậu.
Lúc bấy giờ, mặc dầu các pháp ngoại hữu
lậu, tức cơ thể vật chất, còn sống đó nhưng loại hữu lậu có tánh cách làm
nguyên nhân tạo khổ (Samudaya) mà trước kia có lần đã tạo hạnh phúc và đau
khổ, đã làm cho tâm thất vọng và âu sầu, giờ đây hoại diệt và chấm dứt.
Cũng như trong lò, ngọn lửa đã tắt hẳn, không còn chút nhen nhúm nào, dầu
ta có châm thêm nhiên liệu nhiều hay ít, nhiên liệu vẫn là nhiên liệu, lửa
không phừng cháy.
Tâm cũng vậy, vẫn là tâm, nhưng tâm này
không còn mảy may vô minh nào. Những pháp hữu lậu nằm trong suy tư và
tưởng tượng hoàn toàn là Giáo Pháp, tức Chân Lý. vẫn còn thọ (Vedanà) vì
đó là bản chất của thọ uẩn. Thọ vẫn còn, nhưng không có ý chấp "thọ là
ta", "ta là thọ". Do đó, không có phiền muộn. Cùng thế ấy, tưởng uẩn, hành
uẩn và thức uẩn chỉ còn là những uẩn hiện hữu mà không chứa đựng hoặc lậu
và ái dục vì không còn vô minh. Ðó là điều mà Ðức Thế Tôn gọi là
"Tesam Vùpasamo Sukho"
Người thành đạt mức độ Giáo Pháp như thế
là đã tiến đến cảnh giới thoát khổ. Mặc dầu tứ đại và ngũ uẩn vẫn còn sống
nhưng người ấy hoàn toàn an tĩnh, không bị mảy may phiền phức và xáo trộn
trong tâm, và đó là "Tesam Vùpasamo Sukho".
Tuy nhiên, những pháp hữu lậu của ngũ uẩn
(Panca Khanda) không thể bị loại bỏ trong tức khắc. Khi sắc uẩn (Rùpa
Khandha) chưa hư hoại thì ta phải sử dụng nó một cách bình thường. Như
trường hợp của Ðức Thế Tôn, sau khi đắc Quả Vô Thượng Ngài vẫn còn tùy
thuộc nơi thân ngũ uẩn. Ngài đã dùng nó làm phương tiện để sáng lập Phật
Giáo. Nói cách khác, Ngài dựa trên cơ thể vật chất để đi đứng đó đây, giáo
hóa chúng sanh. Ngài dựa trên hành uẩn (Sankhàrà Khandha) để suy tư tưởng
tượng, giải thích và trình bày Giáo Pháp cho mọi người. Ngài dựa trên
tưởng uẩn (Sannà Khandah) để hồi nhớ lại nơi chốn của mọi người, xem căn
cơ có thích ứng để thính Pháp không, và trình độ hiểu biết của họ đến đâu.
Ngài dựa trên thức uẩn (Vinnàna Khandha) để hiểu biết người nào lãnh hội
được Giáo Pháp, và đôi khi Ngài cần đối thoại, hoặc giải đáp thắc mắc cho
một người hay một nhóm người nào. Như vậy, Ðức Phật sử dụng năm uẩn của
Ngài để làm phương tiện truyền bá Giáo Pháp, thành lập Phật Giáo. Nhưng
ngũ uẩn của Ngài không còn tạo những phiền phức và xáo trộn, vì vô minh đã
bị tận diệt.
Ngũ uẩn mà trước kia gây phiền phức và xáo
trộn cho Ngài là những uẩn bị vô minh chi phối. Các uẩn ấy là công cụ của
vô minh, luôn luôn bị vô minh điều khiển, do đó là nguồn gốc của đau khổ
(Samudaya). Nhưng nay vô minh đã chấm dứt thì ngũ uẩn - đã thoát khỏi ảnh
hưởng của vô minh - cùng với các pháp hữu lậu, không còn tạo phiền phức và
xáo trộn, và đó là "Tesam Vupàsamo Sukho", sự khắc phục và
chấm dứt hoàn toàn các pháp hữu lậu. Ðức Thế Tôn dạy rằng đó là hạnh phúc
tối thượng.
Ðối với mỗi người chúng ta các pháp hữu
lậu - nền tảng nguồn cội của đau khổ - không ngớt tạo phiền não và khó
khăn. Chúng ta đã biết rõ điều này. Nhưng khi tâm được rèn luyện đầy đủ để
trở nên vắng lặng, chúng ta sẽ có đủ trí tuệ để tiêu trừ ô nhiễm và hoặc
lậu (Kilesa và Àsava), từ những hình thức thô kệch nhất đến những hình
thức vi tế hơn, vi tế hơn nữa, hơn nữa... cho đến khi không còn chút bợn
nhơ cực vi nào trong tâm. Vô minh, vị lãnh đạo của "vòng quanh" đã bị trí
tuệ tận diệt, tâm hoàn toàn trong sạch, trở nên "Tesam Vùpasamo
Sukho". Các pháp hữu lậu được điều phục hoàn toàn và trở nên tuyệt
đối an tĩnh.
Trước kia các pháp hữu lậu tồn tại trong
tâm vì bị vô minh chi phối. Nay, vô minh đã chấm dứt, các pháp hữu lậu ấy
cũng được chế ngự và chấm dứt hoàn toàn, không bao giờ còn phát sanh trở
lại. Dầu có rời bỏ thể xác vật chất, tâm ấy vẫn không tạo được thức tái
sanh (Patisandhi Vinnàna), để rồi sanh, lão, bệnh, tử nữa. Cũng như trường
hợp Ðức Thế Tôn, Ngài đã hoàn toàn tận diệt vô minh, do đó tuyệt đối không
còn danh hữu lậu hay sắc hữu lậu nữa, và không bao giờ tái sanh trở lại.
Ðó là "Sugato", Thiện Thệ, đến trong sự
tốt đẹp và ra đi trong sự tốt đẹp. Và Ngài giáo truyền và dắt dẫn mọi tầng
lớp chúng sanh đi tìm lợi ích.
Khi thời kỳ đến và tuổi thọ của Ðức Thế
Tôn chấm dứt ta gọi là "Parinibbàna", Ðại Niết Bàn. Lúc bấy giờ Ngài bỏ
lại các pháp hữu lậu để cho thế gian tôn kính phụng thờ, hoặc nữa, chúng
ta có thể nói rằng Ngài bỏ lại để cho các pháp hữu lậu ấy trở về với tứ
đại: đất, nước, lửa, gió.
Nhưng bản chất thật sự là "Vimuttibuddho",
sự giải thoát toàn giác của Ðức Thế Tôn. Ðó là kho tàng vô cùng quý báu,
một kho tàng được gọi là "Tesam Vùpasamo Sukho", Giáo Pháp
(Dhamma) hay Chân Lý, khắp cùng và hoàn toàn thanh tịnh, không còn mảy may
bợn nhơ.
* * *
Bài Pháp hôm nay đề cập đến các pháp hữu
lậu. Tất cả quý vị đang chăm chú lắng tai và đã nghe Phật ngôn
"Aniccà Vata Sankhàrà" - các pháp hữu lậu đều vô thường - như một
lời kinh đọc tụng thường lệ, hình như không mang nhiều ý nghĩa quan trọng.
Tuy nhiên, câu kệ này đã nói lên đặc tướng nổi bật của thiên nhiên là hoại
diệt. Cái chết luôn luôn xảy diễn. Ngay trong giờ phút này có người chết,
có đổi thay, và biến thể không ngừng tiếp diễn. Tại nơi đây các pháp hữu
lậu chết, trong rừng sâu, trên đồi núi, dưới nước, trên đất liền, các pháp
hữu lậu luôn luôn hoại diệt. Phải chi mỗi lần có biến đổi là có tiếng kêu
ầm lên như một tiếng súng, chắc tất cả chúng ta đều điếc tai. Chừng ấy
tiến trình hoại diệt và tan rã sẽ vang rền và tiếng động đau khổ trong mỗi
gia đình cũng trở nên ầm ĩ. Tiếng kêu vang của loài thú đang chịu đau khổ
từ dưới nước, trong lòng đất, trên đất liền, trên không trung sẽ long trời
lở đất. Chí đến chúng ta, đang ngồi nghe Pháp trong hiện tại, tiếng kêu
đau khổ của mỗi người chúng ta cũng rền vang như súng nổ, tiếng nổ của đau
khổ. Màn tai của chúng ta đã chịu quá nhiều, quá thường xuyên, những tiếng
vang rền đau khổ, tại sao chúng ta còn có thể chưa chấp nhận chân lý
"Aniccà Vata Sankhàrà".
Cần phải chỉ rõ sự thật để quý vị có thể
quan sát, thấy tận tường những điều này và nghe những tiếng nổ chát chúa
của chúng. Nhưng không có tiếng súng báo động khi đau khổ phát sanh, hoặc
lúc có sự biến đổi của đủ loại hữu lậu bên trong chúng sanh. Vì lẽ ấy ta
tưởng chừng như đau khổ chỉ đến với ta, phiền muộn, khó khăn, xáo trộn,
tuyệt vọng, chỉ đến riêng rẽ với ta, và chỉ có ta mới thiếu thốn, khốn
khổ, bất hạnh v.v... Hình như ngoại trừ ta, tất cả những người khác đều
sống trong một thế gian vàng son.
Nhưng trong thực tế tất cả chúng ta đều
cùng nhau chung sống trong một hoàn cảnh, một thế gian, thế gian
"Aniccà Vata Sankhàrà", cùng một loại tứ đại và ngũ uẩn, cùng một
loại tâm, và tất cả đều chứng nghiệm đau khổ như nhau.
Tôi yêu cầu tất cả quý vị hãy quan sát tận
tường Phật ngôn trên và thận trọng suy tư:
"Aniccà Vata Sankhàrà"
- Tất cả các pháp hữu lậu, dầu ngoại hay nội hữu lậu của mỗi chúng sanh
đều vô thường.
"Uppàdavaya Dhammino, Uppajjitvà
Nirujjhanti" - Ðã phát sanh,
dầu ở đâu, đều phải hoại diệt.
"Tesam Vùpasamo Sukho"
- Hoàn toàn chế ngự và chấm dứt tất cả các pháp hữu lậu là hạnh phúc tối
thượng.
Chúng ta hãy cố gắng chế ngự và chấm dứt
những vị "tạo hóa" ấy, tức những pháp hữu lậu, vì chúng là nền tảng nguồn
cội của đau khổ. Hãy cố gắng diệt trừ, tẩy sạch chúng trong tâm một cách
trọn vẹn và tận cùng. Hãy cố gắng làm thế nào cho những pháp hữu lậu vô
thường sanh rồi diệt ấy, không bao giờ còn phát hiện trở lại trong tâm,
gây phiền não, khó khăn và xáo trộn cho ta nữa. Ðiều đó được gọi là thành
đạt trạng thái an tĩnh của Giáo Pháp (Santi Dhamma), trạng thái vắng lặng,
tự tại. Hay nói cách khác, đó là hạnh phúc tối thượng (Parama Sukkha), vốn
là giải thoát (Vimutti) hay Niết Bàn (Nibbàna).
Ðể chấm dứt thời Pháp, xin chú nguyện năng
lực phước báu của Phật-Pháp-Tăng bao trùm tất cả quý vị là những người
bước theo dấu chân Ðức Thế Tôn, và đã đặc biệt cố gắng trong cơ hội này,
từ các làng mạc xa xôi đến đây để thành tâm lắng nghe thời Pháp. Chú
nguyện cho tất cả đều sống an lành, thân tâm an lạc.
(Phỏng viết theo một thời
Pháp được thuyết giảng vào ngày 28-07-1961, trong dịp lễ tang chay Ðại Ðức
Chao Khun Dhammachedi)
-ooOoo-
Chân thành cám ơn Tỳ kheo
Thiện Minh đã gửi tặng bản vi tính (Bình Anson, 02-2003)