Cứ một năm hai kỳ, một vào
mùa hạ, một vào mùa đông
-nay đã tròn được hai mươi năm- hơn mười năm đầu chúng tôi mời Thầy
Thiện Châu (mấy năm sau thầy bị tai biến nên không đi lại thường xuyên
được nên thôi không mời Thầy) sang hướng dẫn một buổi tọa thiền cho các
sinh viên người Đức trẻ. Những năm ấy một thầy một trò người Việt khăn
gói lên đường đi đến một làng nhỏ hẻo lánh hay trong vùng núi xa, hoặc
cạnh một cảnh hồ yên vắng của vùng Nam nuớc Đức xa xôi, để chỉ cách cho
những thanh niên thiếu nữ Tây Phương -mắt xanh mũi lỏ tóc vàng như các
cụ xưa thường gọi- tập ngồi yên như Phật trong suốt hai ngày. Những khóa
thiền ấy đối với tôi đã thành một buổi học hai chiều, tôi học ở Thầy
Thiện Châu khi Thầy giảng và trả lời và tôi học nơi các sinh viên vốn có
truyền thống văn hoá Ky Tô khác hẳn với ta, khi họ háo hức tìm tòi,
thắc mắc, đặt thật nhiều câu hỏi, đưa ra thật nhiều vấn nạn về lời dạy
của Đức Phật, về phương pháp ngồi Thiền cho đến khi họ ngồi yên được.
Những buổi học này nếu viết lại thì e là
tốn quá nhiều giấy mực. Thầy Thiện Châu cũng thường hay nhắc tôi phải
viết lại về các khóa Thiền để đăng báo, nhưng thật tình xét cho kỹ thì
tạm thời tôi có thể gán cho mình hai chữ ham học, nhưng làm một nhà khoa
học như kiểu các Bác Sĩ người Tây Phương sang Miến Điện để ghi lại
không thiếu một mảy may chi tiết về những buổi quán tưởng (thở vào bao
nhiêu phút, thở ra bao nhiêu phút, mạch đập trong lúc tọa thiền nhanh
hay chậm) với một thiền sư thì tôi chắc chắn là không. Có lẽ thầy đã
thất vọng vì cái chứng làm biếng viết lách của tôi. Nhưng
Trăng trên trời tròn như rứa viết làm sao được?
Nước trong hồ yên rứa mà tả răng cho xong?
Lá cây xanh non mỏng hơn cả hơi thở thì nói sao cho vừa?
Núi trong rừng đứng yên hơn bàn thạch thì sức hét nào chẻ được làm hai?
Khi Thầy vừa ngã bịnh không thể sang Đức
hướng dẫn khóa Thiền, Thầy bảo trong điện thoại, những buổi ngồi Thiền
với sinh viên Đức tựa như những giây phút bay lên niết bàn.
Hôm nay nhân ngày Phật Đản, ngồi yên
quán tưởng Phật, nhớ đến những khóa thiền với Thầy Thiện Châu, nhờ Thầy
mà tôi và sinh viên Đức đã đến gần được Đức Phật, đã biết lắng nghe tâm,
xin gửi mấy bài thơ nhỏ làm lén trong lúc hay sau lúc tọa thiền, viết
bằng tiếng Đức:
Quán tưởng 1
Sấm chớp
Chòng chành như lá sen
choàng tỉnh
giọt nước mưa tái sinh
long lanh.
Khóa Thiền 1
Đàm thoại
(Sau buổi ngồi Thiền im lặng, cùng
sinh viên đi dạo trong rừng tuyết, sinh viên ném banh tuyết đùa vui,
tiếng cười nói ròn rã, xóa hẳn sự ngỡ ngàng ban đầu của buổi tọa Thiền)
Trên cầu tuyết
những banh tuyết
tới tấp thành lời
Dạo đêm nhớ Hàn Mặc Tử
(Đêm đông lạnh buốt, trăng sáng ngời đến vỡ thủy tinh)
Ngay cả trong đêm đông
ả Hằng
vẫn đi tắm trần
nơi thác nước.
Suối mùa đông
Đừng để đóng băng
suối mãi miết
bỏ bờ tuyết giá
chảy mau.
Công án
Bờ rong rêu
nỗi lòng suối chảy
tuyết
trinh bạch
nằm nghe.
Quán tưởng 2
Mặt hồ ban mai
thở nhẹ
trong giờ tọa Thiền
bóng người và núi
chung nhau.
Viết về Thiền
ở nơi Người
cô đơn
trở thành
dược đơn
Cái ấy là
Chẳng
Thiền!
Trở về với Thiền
chết khát vì ước ao
hao mòn vì tham ái
héo hon vì tình đời
tác hại và dại điên
ta trở lại
với Người
hớp ngụm
trà xanh.
Tọa Thiền khóa 2
Mặt trời thủy tinh
của mùa đông băng giá này
làm chín
cành tuyết nở hoa năm ngoái
thành
quá kim cương.
Dịch thơ này để tặng độc giả Chuyển Luân
Thái Kim Lan
[]