một số vùng quê đã được đấu nối ống nước từ thành
thị về. Nước có sạch hơn, tiện hơn, nhưng có lẽ cái vị
ngọt của nước sẽ không còn nguyên chất nữa.
1. Gần nhà tôi có một cái giếng cũ, thành giếng từ dưới lên đều xếp bằng gạch
thẻ đất nung. Người ta quen gọi là giếng làng nhưng thực chất
đấy chỉ là giếng của xóm. Qua năm qua tháng, thời gian
điểm tên mình bằng thứ rêu xanh và ít cây rêu dương xỉ len mọc giữa các nếp gạch
như một minh chứng kiên trì của sự trường tồn. Tôi vẫn
nhớ như in, lúc ấy hầu như tất cả các gia đình trong xóm đều đến đây gánh nước
về nấu ăn. Từ sáng sớm cho đến tận khuya, chốc chốc lại nghe tiếng gàu
chao nước xoang xoảng. Tôi thường ra giếng chơi vì ngoài đó
lúc nào cũng có người.
Lũ trẻ như chúng tôi cứ chiều chiều lại tập trung ra giếng ấy
cùng nhau tắm. Tranh nhau chiếc gàu gai múc nước.
Một gàu nước đưa lên là cả mấy đứa chúi đầu vào.
Dây gàu ngắn, trẻ con chúng tôi phải uồm cong, vắt thân mình
vào thành giếng, chúi đầu xuống dưới mới múc được nước.
Khi múc, mấy đứa đứng sau túm giữ lấy thân cái đứa cầm dây gàu. Làm như thế mới khỏi bị rơi xuống giếng. Hoá ra, trong tuổi
ngây dại của mình, trẻ con đã biết đến sự đồng lòng, chung
sức. Giếng ấy còn là nơi lũ trẻ thường tụ tập lại để
chơi như một điểm hẹn. Bên giếng có một bụi rậm với nhiều loại cây dại mà quanh
năm hầu như lúc nào cũng đơm
những trái nhỏ chín vỗ về cơn đói ấu thơ. Khi thì quả mâm xôi đỏ vồng lên, lúc
trái thuồng luồng tím, hay cây cam thảo đất ngòn ngọt… Có thể nói những thứ hoa
quả dại ở quê nhà là “lương thực” cứu trợ sau mỗi buổi đến lớp, trên đường về,
thể nào bọn học trò cũng hái ăn. Chúng tôi hái những trái mâm xôi đỏ lựng và ngọt lịm, nếu không có
trái thì bẻ lấy đọt cây, bóc lớp vỏ mỏng ngoài, tựa lưng vào thành giếng và nhai
một cách ngon lành.
Giữa chặng đường tôi đi học hồi cấp một, có một cái giếng của
làng Dương Đông, ở đấy luôn để sẵn một cái gàu cho người nhỡ đường khát nước.
Những trưa hè nóng nực, đường về nhà thả bộ tuồng như xa lắm, chúng tôi thường
tụm lại múc lên làm một ngụm cho đã khát rồi mới đi tiếp. Mùa đông, sau
khi vượt quãng đường bùn nhơ băng qua cồn Bạt, chúng tôi lại múc nước giếng để
rửa chân cho sạch rồi mới tới lớp.
Có thể nói giếng làng là một tài sản chung
của mọi người, về cả vật chất và tinh thần. Đôi khi đấy là nơi
hò hẹn của mấy o mấy chú. Chỗ này thoáng đãng, gặp gỡ
không sợ điều tiếng dị nghị, lại lấy đó làm cái cớ rằng chúng tôi ra đây là để
múc nước thôi.
Chàng bước tới, rụt rè như sợ trơn trượt; trong khi nàng đỏ
mặt cúi xuống kiểu giả vờ mượn giếng làm gương soi. Một nhà thơ Quảng Trị
đã viết rất duyên về cái tình tứ bên giếng ấy: “Em ra giếng gánh nước trong/
còn tôi ra giếng để không làm gì?” (Nguyễn Văn Dùng).
Nhớ hồi nhà chưa có giếng, buổi tối mạ tôi vẫn thường gánh một triêng rau ra
giếng làng, múc nước lên rồi dùng tay vẩy vẩy cho rau
tươi để sáng mai đem ra chợ bán. Nước giếng trong vắt và hình
như có chút sắc tố gì đó làm cho rau xanh thêm.
Nước ấy đem đun sôi để pha
chè tươi thì nước chè cũng xanh và đậm đà. Có lẽ người xưa
chọn đào giếng làng ở nơi đất tốt, hẳn vì thế mà những làng nào có cây đa bên
giếng thì đều tốt tươi. Và một điểm đặc biệt nữa là
những khi hạn hán, thì giếng làng vẫn luôn sẵn nước.
2. Đến năm 1993, nhà tôi mới đào được cái giếng riêng. Ngày đào giếng ông nội
làm lễ cúng rất chu đáo. Ông nói vì làm bất cứ việc gì
mà đụng chạm đến đất đai đều phải cúng, như kiểu xin
phép thổ thần. Những nhà trong xóm cũng đều đào cho mình một cái giếng ở phía gần
bếp. Người ta đúc bốn ống bi tròn và lún xuống đất chứ không xây giếng
vuông nữa.
Phải công nhận người quê ít học hành nhưng giỏi tính liệu.
Trong toán học, nếu cùng chu vi thì hình tròn có diện
tích lớn hơn hình vuông, và vì thế cái giếng tròn chứa nước nhiều hơn cái giếng
vuông (đây là bài toán đo đất của nàng Titô trong huyền thoại Hy Lạp).
Ở quê, cái bếp và cái giếng gắn liền với người phụ nữ, họ quẩn
quanh đấy. Ngày ấy thường có trò “gò” gái, là cách đi
tìm người thương của đám trai làng. Sau bữa cơm chiều, các cô bưng cái ấm
trà ra chùi rửa xong đặt vào bàn để ông cụ tiếp khách, còn mình lại ra giếng,
làm gì không biết cứ luẩn qua luẩn quẩn nơi thềm giếng ấy, một kiểu “trốn” rất
phổ biến của con gái nhà lành. Đám con trai làng vào nhà, ngồi uống no nước và
tiếp chuyện mỏi mồm với ông bà cụ. Chỉ chàng nào có ý mới tách
riêng, giả vờ xin phép đi ngoài rồi bước ra giếng. Tựa lưng vào thành
giếng, tay cầm cái dây gàu nấn ná mãi mà người ta chẳng
nhờ múc miếng nào, thì cứ múc đại lên đổ vào chậu nước cho đầy tràn.
Đêm nào có trăng lại thi vị hơn nữa, bóng trăng soi chếch rót ánh vàng vào chậu
nước. Cô gái nhủ anh đừng có đổ nữa, để rứa cho trăng
nó yên. Anh chàng giảo ngôn, nói mô có, anh múc trăng
dưới giếng lên đấy chứ.
Giếng nước nhà quê không đơn thuần chỉ để lấy nước, nó còn thêm nhiều mục đích
khác rất đơn giản nhưng thiết thực. Chẳng hạn, mỗi lần tắm
người ta cọ lưng vào thành giếng hoặc dùng chính cái dây gàu vắt chéo sau lưng
kéo qua kéo lại. Hay những lúc người chồng nóng nảy,
đòi vợ. Người vợ khôn khéo không cần chạy đâu xa, cứ
vòng quanh cái giếng để trớ. Người chồng đuổi ba vòng không bắt được
tay, nguôi giận. Vậy là cái giếng đã gội mát sự bực bội
nhất thời.
Nước giếng lại như một bình điều hoà, mùa hạ thì nước mát đến lạnh, mùa đông
nước lại ấm như được pha thêm. Cái tiện nghi và thuần hậu của
giếng là ở chỗ ấy.
*
Rằm tháng Tám năm nay, tôi có dịp dự lễ cúng làng, các cụ bàn
chuyện tôn tạo lại giếng làng. Hậu bối như chúng tôi
được dịp ngồi nghe các cụ kể lai lịch và những chuyện thiêng liêng liên quan đến
giếng. Bây giờ, trong làng Phúc Lộc 3 cái giếng xóm vẫn
còn, lâu ngày không ai múc nên giếng bỏ hoang. Còn cái
giếng làng nằm bên cồn Sanh thì đã bị lấp đi từ lâu, hồi nhỏ đến giờ tôi chưa hề
thấy.
Ban hương sự của làng dự kiến sẽ khai thông lại cái giếng chính ấy.
Đấy là một việc làm cần thiết và ý nghĩa, để những ai đi xa về cứ soi mặt xuống
đấy, có khi thấy bóng mình in giữa bóng trời sâu thẳm, thấm giữa mạch nước quê
nhà. Tu một ngụm thật đã rồi ngửa cổ lên trời mà hỏi: Còn ai múc nước
giếng quê?