Nhiều
người được gọi là những nhà tư tưởng tự do thực sự không phải là những
nhà tư tưởng tự do, nhưng đúng hơn họ lười biếng suy nghĩ chỉ vì họ
không muốn tư duy một cách nghiêm túc và suy nghiệm về ý nghĩa của sự
hiện hữu của mình. Họ tự cho mình là những nhà tư tưởng tự do. Trong
Phật giáo không có một lý do nào để gọi những loại người này là những
nhà tư tưởng tự do. Phật giáo khích lệ con người suy nghĩ một cách tự
do nhưng sâu sắc và không có sự thiên vị, thành kiến.
Ngay
sau khi chứng đắc sự giác ngộ, khi có nhiều chư vị đệ tử, đức Phật dạy:
“Này các Tỳ-kheo, bây giờ chư vị và ta tự do, giải thoát khỏi những sự
trói buộc của chư thiên và loài người”. Ơû đây, chúng ta có thể tìm
thấy một bối cảnh liên quan đến ý nghĩa của của một nhà tư tưởng tự do
là gì.
Thông thường, người ta cố
gắng giới thiệu những quan điểm và niềm tin, và sự thực hành tôn giáo
của họ bằng cách áp đặt những sự trói buộc mang bản chất thiên đàng và
những bức thông điệp được mời gọi từ thiên đàng. Đức Phật đã bác bỏ
những quan điểm như thế. Ngài nói chính Ngài và chư đệ tử Ngài tự do
giải thoát khỏi sự trói buộc con người và chư thiên.
Những
sự trói buộc này là gì? Chúng là những loại tín ngưỡng, tham ái, chấp
thủ, quan điểm, truyền thống, phong tục tập quán v.v… ở nhiều hình thức
khác nhau được tạo ra dựa trên danh nghĩa tôn giáo nhằm khai thác sự sợ
hãi và sự hoài nghi của con người. Những người chịu sự nô lệ bởi những
tín ngưỡng và tôn giáo như thế là đang chịu sự trói buộc. Xét về phương
cách nào mà đức Phật được gọi là một nhà tư tưởng tự do hoặc là làm thế
nào chúng ta có thể cho rằng Phật giáo là một tôn giáo của tự do và lý
trí?
QUYỀN TỰ DO SUY NGHĨ MỘT CÁCH TỰ DO VÀ HIỂU BIẾT CHÂN LÝ
Đức
Phật đã tạo cho con người có đầy đủ quyền tự do suy nghĩ một cách tự do
mà không phụ thuộc vào quan niệm của một vị thần, một vị Phật hay là
bất kỳ một vị đạo sư nào khác hỗ trợ để hiểu được chân lý. Đó là sự tự
do, giải thoát. Theo một số tư tưởng gia phương Tây, Phật giáo được
biết đến như là một tôn giáo của tự do và lý trí”. Tuy nhiên, tự do
phải được lý trí hướng dẫn, soi sáng. Nếu không thì người ta sẽ lạm
dụng sự tự do đó. Chẳng hạn, nếu một chính phủ ban cho công dân của họ
quyền tự do hoàn toàn được sống và làm bất cứ điều gì theo quyền tự do
của họ, theo ý chí của họ, thì chắc chắn rằng trong vòng 24 tiếng đồng
hồ, họ có thể hủy hoại toàn bộ đất nước. Đó là sự hiểm nguy của việc
ban bố quyền tự do mà trước tiên không phát huy lý trí trong tâm thức
con người. Chúng ta nên tuân theo nguyên tắc tương tự trong việc thực
hành tôn giáo. Mặc dù, một số người cho rằng tự do ý chí hiện hữu để
cho con người nỗ lực, phấn đấu, song chúng ta biết rằng không có một sự
tu tập, huấn luyện và hướng dẫn thích hợp thì việc sử dụng tự do ý chí
đó có thể đưa đến những hậu quả tai hại. Một đứa trẻ có thể có tự do ý
chí, nhưng nó phải được dạy dỗ không nên chơi với một đường dây điện
đang dẫn điện.
Đức Phật nhấn mạnh
rằng tự do ý chí không phải là một món quà từ bất kỳ một động lực bên
ngoài nào. Đó là bản năng của chúng ta. Hành vi con người, nhân cách
con người, tâm hồn con người là những nét đặc trưng được phát triển
trong suốt cuộc hành trình sinh mạng của chúng ta. Cho dù chúng ta là
người có văn hóa hay không có văn hóa, văn minh hay không, có đạo hay
vô đạo, thiện hay ác, tốt hay xấu, đê tiện hay tử tế, tùy thuộc vào
những thói quen, tập khí tâm mà chúng ta đã phát triển chúng từ kiếp
này qua kiếp khác trong quá khứ. Những đặc tính này không phải là do
một ai ban bố cả.
Tôn giáo trở nên
rất quan trọng trong việc hướng dẫn và chỉ đạo cách tư duy của con
người bằng cách đưa ra những sự chỉ dẫn thích hợp. Mục đích của tôn
giáo là nhằm giúp cho con người tu tập, rèn luyện tâm thức anh ta để mà
anh ta có thể phát huy sự hiểu biết và hành động theo tinh thần trách
nhiệm luân lý đạo đức. Con người làm thiện, làm việc có lợi ích bởi vì
anh ta “biết” rằng đó là việc đúng, việc tốt phải làm, chứ không phải
là vì anh ta muốn tránh sự trừng phạt hoặc là muốn nhận được sự tưởng
thưởng. Tôn giáo là một sự trợ giúp để phát triển cá nhân thăng hoa
trong cuộc sống.
Tại sao chúng ta
không nên lệ thuộc vào bất kỳ một người nào khác? Nếu chúng ta ngưng
làm những điều ác, nhiều điều đồi bại, đê tiện, ích kỷ, không suy nghĩ
những điều ác, điều xấu, ích kỷ sợ rằng có một ai đó trừng phạt chúng
ta, thì chúng ta sẽ không bao giờ tạo ra một cơ hội cho tâm của chúng
ta tu tập sự hiểu biết, lòng từ bi. Con người đôi khi còn làm những
nghiệp thiện hoặc là phục vụ cho những người khác để mong đợi một sự
tưởng thưởng lớn lao. Nếu đây là động cơ, thì họ sẽ không phát triển sự
cảm thông, sự hiểu biết theo ý nghĩa chân xác của ngôn từ. Họ trở nên
íc kỷ tránh làm những ác nghiệp nhằm mục đích trốn thoát sự trừng phạt
hoặc là hành thiện nghiệp để được thưởng. Đây là một thái độ ích kỷ.
Đức Phật không tán thành hành động này. Nếu thiên đường và địa ngục đều
được đóng cửa lại, thì có biết bao nhiêu người sẽ sống với đạo? Tuy
nhiên, Phật giáo khích lệ những hành vi luân lý mà không đề cập đến
thiên đường hay địa ngục. Đây là tính nhất quán trong giáo lý của đức
Phật.
MỘT TÔN GIÁO TỰ DO VÀ LÝ TRÍ
Mục
đích chính của tôn giáo không phải là để đảm bảo được trốn thoát khỏi
sự trừng phạt hoặc là nhận được sự tưởng thưởng mà là để giúp đỡ con
người ta trở nên hoàn thiện hơn và để chấm dứt những khổ đau về vật lý
cũng như tinh thần và giải thoát khỏi những khổ đau, biến họai.
Đức
Phật còn muốn tu tập nhân bản theo một số giới luật mang đầy bản chất
luân lý, đạo đức nhất định, nhằm để trau dồi nhân cách con người. Điều
này có thể đạt được mà không cần phải viện đến những sự cám dỗ do những
lời hứa hẹn của thiên đường hoặc là sự đe dọa lửa nơi địa ngục cung
cấp. Đó là lý do giải thích tại sao tôn giáo này được xem như là một
tôn giáo tự do và lý trí. Đức Phật khuyến khích chúng ta hãy học tập
với một tâm hồn cởi mở để khảo sát và tìm hiểu thế giới. Chúng ta không
nên lập tức chấp nhận những gì chỉ là tín ngưỡng hay niềm tin. Đức Phật
dạy: “Không nên chấp nhận bất cứ điều gì chỉ là niềm tin bởi vì nó sẽ
tạo ra cho chúng ta khó khăn trong việc tìm hiểu sự thật, và bởi vì
niềm tin đó có thể khiến cho bạn trở thành một tín đồ mù quáng.
Loại
niềm tin mù quáng này có thể đưa đến sự cuồng tín tôn giáo. Con người
phản ứng theo bản năng tình cảm đối với thẩm quyền tôn giáo hơn là
quyết định một cách có lý trí liệu điều đó đúng hay sai bởi vì họ chưa
biết được tri thức phân tích trong tâm họ để hiểu tại sao họ nên giữ
gìn một số việc hành trì giới luật nhất định và tại sao họ nên tránh xa
những hành động phi luân lý.
Chẳng
hạn, khi một đứa trẻ không hiểu sự vật một cách đúng đắn, người mẹ hay
cha đe dọa nó. Nếu nó quá nghịch ngợm, thì bố mẹ thậm chí có thể đánh
đòn nó và nhắc nhở nó không nên làm sai trái nữa. Bởi vì sợ như thế,
đứa trẻ có thể ngưng không làm những hành động nghịch ngợm nhưng nó
không được giúp đỡ để nhận ra được rằng tại sao điều đó là sai và đâu
là cái sai. Điều đó chỉ tạo ra cảm giác sợ bị phạt mà thôi. Lại nữa,
khi bố mẹ yêu cầu đứa trẻ làm một điều gì đó và nếu nó từ chối, thì lúc
đó bố mẹ sẽ mua chuộc nó bằng lời hứa hẹn sẽ thưởng cho nó. Đứa trẻ có
thể làm điều đó, nhưng lại không hiểu tại sao. Sẽ rất dễ dàng cho đứa
trẻ trở lại làm những hành động hay suy nghĩ sai mà không có một sự
hiểu biết. Tương tự như vậy, chúng ta không nên truyền bá tôn giáo
thông qua sự thưởng phạt mà không cho phép con người có được sự hiểu
biết đúng đắn. Nếu chúng ta cố gắng truyền bá tôn giáo thông qua sự
thưởng phạt, thì con người sẽ không hiểu giá trị chân thật và mục đích
chính của tôn giáo. Đó là lý do tại sao trong Phật giáo không có sự đe
dọa của sự trừng phạt tôn giáo. Trách nhiệm của tôn giáo là phải hướng
dẫn, giáo dục và giác ngộ nhân loại. Trừng phạt là trách nhiệm của pháp
luật của quốc gia. Tôn giáo không nên đảm trách vai trò của pháp luật
nhằm trừng phạt con người. Nếu không, sẽ xuất hiện sự sợ hãi mà không
có một sự hiểu biết đúng đắn. Đây là bản chất của giáo lý đức Phật và
tại sao chúng ta xem Ngài như là một nhà tư tưởng tự do.
TỰ DO TÔN GIÁO
Vào
thời đức Phật, có một nhóm người trẻ tuổi không thể hiểu cách để chọn
lựa một tôn giáo một cách tự do bởi vì vào lúc đó, có hơn 62 nhóm ngoại
đạo tại Aán độ. Do vậy, họ đến đức Phật và bạch đức Phật về vấn đề khó
xử của họ. Họ nói rằng họ không biết cách để chọn lựa cho mình một tôn
giáo thích hợp. Đức Phật không nói rằng Phật giáo là tôn giáo chân thật
duy nhất và những tôn giáo khác đều là sai. Sau đó, Ngài đưa ra những
sự chỉ dẫn cho những thanh niên trẻ tuổi này, khuyên họ nên suy nghĩ
một cách tự do mà không lệ thuộc vào uy quyền của những bậc đạo sư hoặc
là những vị lãnh đạo tôn giáo. Lời khuyên này là một phương diện vô
cùng quan trọng trong giáo lý đức Phật. Giới trí thức trên khắp thế
giới đánh giá cao thái độ của đức Phật bởi vì lời khuyên phóng khoáng,
tự do mà đức Phật đã giúp cho họ suy nghĩ một cách tự do. Đức Phật
không tuyên bố rằng Ngài là đạo sư chân chánh, thật sự duy nhất và nếu
một ai đó đến với Ngài và sùng bái Ngài và cầu nguyện Ngài, thì người
đó sẽ được cứu rỗi, tội lỗi của người đó sẽ được tha thứ và anh ta sẽ
đạt đến thiên đàng hay là chốn Niết-bàn sau khi chết đi. Ngài cũng
không bao giờ đề nghị rằng chúng ta nên xem thường những bậc đạo sư của
các tôn giáo khác. Ngài dạy chúng ta nên “tôn trọng những ai xứng đáng
được tôn trọng”.
Có một số người
tin rằng nếu họ sùng bái hoặc là kính trọng bậc thầy của tôn giáo khác,
thì họ phạm phải tội lỗi. Điều này bởi vì có một số nhà lãnh đạo tôn
giáo nhắc nhở rằng nếu tín đồ của họ bước sang một nơi thờ phụng khác,
hoặc là đọc một vài kinh sách của một số tôn giáo khác hoặc là nếu lắng
nghe thời thuyết pháp của tôn giáo khác, thì họ sẽ phạm phải một tội
lỗi và sẽ bị trừng phạt ở địa ngục. Họ muốn chứng tỏ rằng họ là có ác
cảm với những tôn giáo khác. Chính điều này tạo ra sự sợ hãi và khiến
cho con người vô minh. Phật giáo khồn khích lệ thái độ không khoan dung
này. Lại nữa, đức Phật dạy: “Hãy chấp nhận chân lý bất cứ khi nào chân
lý ấy có giá trị. Hãy ủng hộ tất cả mọi người không phân biệt tôn giáo
của họ”.
Bịt mắt và dẫn dắt những
con người vô tội đi vào con đường tội lỗi, sai lầm là một việc làm sai
trái. Bằng cách tạo ra những sự phân biệt để mà họ có thể truyền bá
những ý tưởng không mấy lành mạnh lắm dựa trên danh nghĩa tôn giáo. Bởi
vì như thế này cho nên nhiều người xem tôn giáo như là một mối phiền
lòng. Thiện chí, hòa hợp thống nhất, hài hòa và những mối quan hệ giữa
nhân loại bị hủy diệt do vì những thái độ thù địch như thế. Đôi khi,
những thành viên của cùng một gia đình bị phân chia thành những nhóm
khác nhau thông qua sự ảnh hưởng của một thái độ tôn giáo như thế.
Người
Phật tử không bao giờ được khích lệ nuôi dưỡng những thái độ thù địch
như thế để mà truyền bá bức thông điệp của mình trên 2500 năm qua. Đó
là lý do tại sao người Phật tử không tổ chức những phương pháp vấn đáp
nhằm mục đích giáo hóa tín đồ của những tôn giáo khác theo Phật giáo.
Người con Phật không nghĩ rằng giáo hóa người khác vào đạo mình là một
việc làm vô cùng quan trọng mà họ nghĩ rằng tín đồ của những tôn giáo
khác cũng là những người tạo ra tội lỗi. Đức Phật không bao giờ đưa ra
một phương pháp như thế để lãm lễ rửa tội người khác hoặc là tha thứ
những tội lỗi mà họ đã phạm phải.
Khi
bạn so sánh tự do tôn giáo với tự do trong những lĩnh vực khác chẳng
hạn, bạn có thể đánh giá cao sự tự do mà bạn kinh qua từ lúc chào đời
cho đến lúc tạm biệt cuộc đời này để đi đến nấm mộ. Trong Phật giáo
không có quy luật, luật lệ tôn giáo yêu cầu những hình thức hôn nhân
gia đình phải được thực thi theo những tiếng gọi của tôn giáo bởi vì
người Phật tử không tin rằng sự ly hôn là không thể xảy ra chỉ vì nó
được ghi nhận trên thiên đường. Nếu một cuộc hôn nhân được ghi lại trên
thiên đường, thì nó cũng có thể hủy bỏ được bằng cách yêu cầu sự ghi
nhận đó phải được xóa bỏ. Liệu điều đó có thể là sự tự do thực sự
chăng?
Chúng ta phải chấp nhận
những trách nhiệm và bổn phận được dạy trong tôn giáo không phải như là
một quy luật mà là một sự tự do chọn lựa. Chúng ta phải hành động theo
niềm tin của chính mình và theo lối sống của chúng ta. Chúng ta không
nên chấp nhận một cách mù quáng một số luật lệ tôn giáo nhất định đã
được một số nhà lãnh đạo tôn giáo có thẩm quyền làm sẵn. Chúng ta không
nên chấp nhận tôn giáo bởi vì lý do sợ hãi mà hãy chấp nhận tôn giáo
với một tâm hồn cởi mở để biết cách tận dụng cuộc đời nhằm phục vụ
những người khác và hiểu được ý nghĩa của sự hiện hữu của chúng ta trên
cõi đời này.
Hiện nay trên khắp
mọi nơi trên thế giới, con người đang tranh đấu với nhau với mục đích
truyền bá tín ngưỡng tôn giáo của mình. Họ đang tranh đấu, ganh tỵ lẫn
nhau và gây ra sự thù hận tôn giáo đối với những tôn giáo đang hiện
hữu. Có những dân tộc đã thực hành tôn giáo của như là một phần sự thừa
hưởng nền văn hóa của họ hoặc là một triết lý sống hơn 1000 năm hoặc
3000 năm. Di sản phong phú, nền triết học đa dạng, tâm lý phong phú,
đời sống đáng kính trọng và vô hại, luân lý và đạo đức đã giúp cho họ
sống một cuộc đời thánh thiện. Song, có một vài nhóm tôn giáo khác tìm
cách cố buộc họ phải chấp nhận niềm tin tôn giáo của họ bằng cách hứa
hẹn sẽ đưa những người này lên thiên đường dường như thể là họ đã được
ban cho độc quyền để độc chiếm thiên đường. Họ cố tìm cách khuyến dụ
những người khác rằng chỉ nhờ vào tôn giáo của họ, con người mới có thể
được cứu rỗi lên thiên đường.
Theo
Phật giáo, tín đồ của bất kỳ một tôn giáo nào hay là thậm chí những ai
không mang trong mình một nhãn hiệu tôn giáo riêng biệt nào cũng có thể
lên thiên đường. Họ có thể làm được điều này nếu họ tu tập trau dồi
những phẩm chất con người của họ và nếu họ không lạm dụng nhân phẩm của
họ và duy trì chân giá trị con người và trí khôn của con người.
Theo
một số nhà lãnh đạo tôn giáo, một người sống đời sống vô hại, không thể
lên thiên đường mà trước tiên không chấp nhận thần linh, thượng đế của
họ. Nhưng một tên trộm cướp, đã phạm pháp, gây ra mối hiểm nguy cho
những con người vô tội bằng cách phạm phải tất cả những hành động xấu
xa, tội lỗi cũng có thể có được cơ hội để lên thiên đường bởi vì anh ta
đơn giản chỉ nói một niệm trước lúc mạng chung rằng: “Tôi tin vào thiên
đường”. Họ nói rằng nếu bạn tôn thờ tôn giáo của họ, thượng đế sẽ tha
thứ tất cả những tội lỗi mà bạn đã phạm phải và ngay lập tức bạn được
họ đưa lên thiên đường. Tên tội phạm này đã có được cơ hội để được lên
thiên đường sau khi xâm phạm đến cuộc sống an lạc và hạnh phúc của
những con người vô tội. Theo họ, thượng đế có thể cứu rỗi tên tội phạm
nhưng không có sự cảm thông đối với những ai đã trở thành nạn nhân của
tên tội phạm này.
Nếu thượng đế có
thể cứu rỗi kẻ phạm tội sau khi đã phạm phải những hành động độc ác,
tội lỗi và hãm hại những người khác, thì tại sao thật khó khăn cho anh
ta ngưng làm những hành động tội lỗi này? Người con Phật tin rằng dù đó
là một người mang khác nhãn hiệu tôn giáo hoặc là thậm chí nếu họ cho
rằng họ không tôn thờ một tôn giáo nào, nếu họ thánh thiện, người có
văn hóa, được tu tập và nếu họ không làm hại những người khác, có đức
tính thanh nhã, độ lượng thì họ được xem như là những con người xứng
đáng được tôn kính và trân trọng theo quan điểm Phật giáo.
Vấn
đề lớn nhất mà chúng ta đang phải đương đầu hiện nay là chúng ta có quá
nhiều truyền thống và phong tục tập quán do ông bà tổ tiên của chúng ta
để lại, trong khi đó những điều này chỉ phù hợp với lối suy nghĩ của họ
vào thời điểm đó. Họ có những triển vọng của riêng bản thân mình. Trong
qúa khứ, khoa học và kỹ thuật và kiến thức về thế giới, về đời sống và
nhân sinh vũ trụ vô cùng nghèo nàn lạc hậu. Sợ hãi và vô minh làm động
cơ cho họ để mà họ bắt đầu hình thành nên nhiều loại lễ nghi, nghi thức
và nhiều buổi tế lễ đa dạng. Sau này, những hình thức lễ nghi, tế lễ
này trở thành những phong tục truyền thống. Những truyền thống này sau
đó được công thức hóa thành nhiều nền văn hóa khác nhau. Là những người
con Phật, chúng ta có thể chấp nhận những hình thức này như là một bộ
phận của những nét văn hóa khác nhau của chúng ta. Nhưng chúng ta không
nên cảm thấy rằng chúng ta buộc phải chấp nhận và thực hành theo tất cả
những truyền thống, phong tục này. Chúng ta tôn trọng văn hóa và truyền
thống, song đồng thời nên cố tìm ra liệu những nét văn hóa truyền thống
này mang ý nghĩa đặc trưng gì không hoặc là liệu chúng có lợi ích cho
bản thân chúng ta và cho những người khác hay không. Nếu những truyền
thống này có lợi ích cho cả hai, thì lúc đó chúng ta nên chấp nhận
chúng. Nếu không, chúng ta nên cảm thấy rằng mình có quyền tự do không
chấp nhận chúng và chọn lấy những phương cách mới thích hợp với lối
sống hiện đại của chúng ta.
CÁCH CHỌN LỰA MỘT TÔN GIÁO
Khi
chọn lựa một tôn giáo, chúng ta nên tránh những gì mang tính chất
truyền thuyết hoặc là nghe nói suông. Người ta đến và nói với chúng ta
về tất cả những mẩu chuyện thú vị hấp dẫn về những đấng quyền năng siêu
nhiên, về bậc đạo sư của họ, bậc thầy, những nghi thức hành trì tôn
giáo, nam thần và nữ thần v.v…. Họ cường điệu và nhân cách hóa những sự
kiện hoặc những mẩu chuyện và đến và bảo chúng ta chấp nhận niềm tin
của họ. Lời khuyên của đức Phật là không nên chấp nhận những gì họ nói
mà không xem xét chúng một cách thận trọng. Chúng ta có lý trí của một
con người bình thường để suy nghĩ nhưng bởi vì những nhược điểm của
mình, chúng ta không tạo ra cơ hội để cho lý trí đó suy nghĩ mà không
mang thành kiến, thiên vị. Đức Phật khuyên chúng ta không nên chấp nhận
bất cứ điều gì mà không cân nhắc kỹ lưỡng mỗi lời tranh luận. Nếu chúng
ta không cân nhắc kỹ lưỡng thì sớm muộn gì chúng ta cũng sẽ biết rằng
những gì chúng ta chấp nhận một cách vội vàng là không đúng.
Chúng
ta không nên phụ thuộc vào bất kỳ một bộ thánh điển nào mà không nghiên
cứu nó một cách chính xác. Một số người cho rằng thánh điển của tôn
giáo họ là đúng và của những người khác tôn giáo là sai. Họ cũng nói
rằng đó là một bức thông điệp từ thiên đường, được ghi nhận bởi thẩm
quyền tôn giáo họ và chúng ta phải chấp nhận nó mà không cần phải chất
vấn, kiểm nghiệm. Lời khuyên của đức Phật là không nên chấp nhận bất cứ
điều gì được ghi lại trong những bộ thánh điển mà không xem xét chúng
cẩn thận. Bạn có thể tìm thấy một bậc đạo sư nào khác đã tuyên thuyết
những ngôn từ như thế không? Ngài đã tôn trọng khả năng lý trí của con
người. Ngài đã tạo cho ta biết bao tự do để theo đuổi một tôn giáo!
Theo
quan điểm Phật giáo, người ta có thể ghi lại bất cứ điều gì trong kinh
sách của họ và sau này giới thiệu những lời ghi lại ấy như là những bộ
thánh điển với những bức thông điệp từ thiên đường. Con người chấp nhận
những ghi nhận ấy mà không cần chất vấn. Những nhà lãnh đạo tôn giáo
dùng quyền uy của họ để kiểm soát, điều khiển con người như thể họ là
những đứa trẻ con. Họ đưa ra những quan điểm tôn giáo được làm sẵn của
họ. Do vậy, họ truyền trao những quan niệm điểm của mình cho những
người khác và buộc họ phải chấp nhận và tin theo. Do đó, con người ta
không có được cơ hội để sử dụng ý thức thông thường hoặc là khả năng lý
trí của họ để hiểu sự vật một cách chính xác.
Lời
khuyên tiếp theo của đức Phật là không nên chấp nhận bất cứ điều gì
thông qua duy suy luận. Mặc dù chúng ta khuyên người ta không nên chấp
nhận điều gì mà không có lý trí, đức Phật nói rằng chúng ta không nên
sử dụng duy lý trí. Sự suy luận của chúng ta rất là hạn chế. Ngay cả
trẻ con cũng có thể suy luận theo cách suy nghĩ riêng của chúng. Chúng
ta cũng có thể suy luận những vấn đề nhất định nào đó trong khả năng tư
duy của chúng ta. Khi chúng ta so sánh sự suy luận của chúng ta với sự
suy luận của những tư tưởng gia vĩ đại hoặc là của những khoa học gia,
thì lúc đó dưới cặp mắt của những nhà trí thức uyên thâm này, sự suy
luận của chúng ta không chính xác.
Khi
chúng ta so sánh sự suy luận của những bậc trí thức uyên thâm này với
cách suy luận của những bậc đạo sư đã giác ngộ thì chúng ta có thể hiểu
rằng sự suy luận của những bậc trí thức này cũng không hoàn hảo.
Đó
là lý do tại sao đức Phật nói rằng: “Hãy chấp nhận chân lý nằm trong
khả năng của bạn chứ không nên lập tức cho rằng đó là chân lý tuyệt
đối”. Hãy để cho tâm thức bạn suy luận một cách tự do. Hãy tạo điều
kiện cho tâm thức phát triển, tăng trưởng. Không nên khép cửa tâm thức
ngay lập tức. Những gì bạn đã chấp nhận sau này có thể thay đổi theo
những kinh nghiệm và sự hiểu biết chín chắn và đúng đắn, chính xác.
Lời
khuyên tiếp theo là không nên chấp nhận điều gì thông qua sự tranh luận
mang tính lôgic. Sự tranh luận phụ thuộc vào khả năng, kiến thức, kỹ
năng và thái độ tài năng chứ không phụ thuộc vào sự kiện và chân lý. Sự
tranh luận có thể làm phát sinh tình cảm và tự ngã.
BA ĐẶC TÍNH
Muc
tiêu chính yếu của tôn giáo là chú trọng nhiều hơn đến lĩnh vực tu tập
một đời sống thánh thiện, một đời sống giới hạnh, luân lý đạo đức và
nhằm duy trì sự hòa bình, an lạc, hạnh phúc và sự tự tin trong tâm và
nhằm đẩy mạnh sự tự do giải thoát khỏi trạng thái tâm lý sợ hãi, lo
lắng, sân hận, thù địch và vô minh hơn là dồn hết thời gian vào việc
sùng bái, cầu nguyện và thực thi những hình thức lễ nghi tôn giáo.
Nhân
loại có ba bản chất: thú tính, nhân tính và thiên tính hay tính siêu
phàm. Tôn giáo đóng vai trò rất quan trọng trong việc đè nén hoặc kiểm
soát thú tính trong con người. Chúng ta không thể đạt được an lạc hạnh
phúc bằng cách chỉ cầu nguyện suông. Nếu con người cũng sống để mà ăn,
để tìm sự che chở, bảo vệ và để sinh đẻ, thì lúc đó sẽ không có sự khác
biệt giữa thú vật và con người.
Tuy
nhiên, con người khác với thú vật ở chỗ là con người có thể được hướng
dẫn phát triển tâm cao thượng. Tôn giáo là một nhân tố hùng mạnh giúp
anh ta hoàn thành nhiệm vụ này.
Có
một đặc tính phi thường trong tâm thức con người được gọi là Pháp. Pháp
được căn cứ trên cơ sở những phẩm chất con người của chúng ta. Làm
người, chúng ta phải tu tập, trau dồi tàm quý. Sợ hãi về tội lỗi, điều
xấu xa, tàn bạo và những việc làm nguy hiểm sẽ phạm phải. Mặc khác, làm
người chúng ta nghĩ rằng chúng ta thật hổ thẹn khi làm những điều ác,
trái với lương tâm, làm những việc phi luân lý đạo đức. Nhằm duy trì
chân giá trị con người, đảm bảo khả năng lý trí của con người, chúng ta
phải tu tập tàm và quý.
Trên thế
giới hiện nay có rất nhiều tôn giáo và rất nhiều nơi cầu nguyện, cúng
tế. Tại phương Đông, nhà thờ, thánh đường, đền đài, chùa chiền và nhiều
nơi cúng tế, cầu nguyện khác đông chật người. Họ cho rằng tôn giáo đang
phát triển tốt. Khắp mọi nơi đâu chúng ta cũng nhìn thấy người, cầu
nguyện, cúng bái, đốt hương và vàng bạc, giấy tờ v.v… nhưng thực sự có
bao nhiêu người trong số những người cầu nguyện ấy duy trì một sự tàm
quý trong tâm họ? Nếu những phẩm chất tự nhiên và cao quý này vắng mặt,
thì thực sự có một tôn giáo chân thật không? Nhiều người trong số họ
tuyên bố tôn giáo của họ một cách to tác nhưng thực sự thiếu đi những
phẩm chất của con người, để lại những tình trạng thảm thương cho tôn
giáo
HT. Dhammananda;
Thích Quảng Bảo dịch