Chùa Bửu Minh

Về giá trị văn chương, nay cũng như xưa, không lấy gì làm khuôn thước để đo lường cho đích xác. Cho nên cổ thi có câu:   Văn chương tự cổ vô bằng cứ Đản nguyện châu y ám điểm đầu.

Ý nói rằng: Vì không có bằng chứng cụ thể để chứng minh sự đắc thất  của văn chương, nên phải cầu thần áo đỏ ám trợ bằng cách gật đầu.

 

“Châu y ám điểm đầu” là tích Âu Dương Tu duyệt điểm thi. Âu  Dương Tu là một đại gia văn chương đời Tống. Mỗi lần đi khảo thí thì nơi chỗ ngồi xuất hiện một vị thần áo đỏ. Những đêm mỏi mệt  mà gặp quyển thi còn nghi ngờ giá trị, nếu thần áo đỏ gật đầu thì mới lấy đậu. Công có thơ:

 

Thanh dạ mộng trung hồ nhãn xứ

Châu y ám lý điểm đầu thì.

 

Nghĩa là: Đêm thanh, khi đôi mắt mơ hồ chìm vào bóng mộng, thì trong nơi mơ màng, thần áo đỏ khẽ gật đầu.

 

Ý nói: Khi đôi mắt mệt mỏi không phân biệt được giá trị

văn chương, thì thần áo đỏ ám trợ để tránh sự lầm lạc.

 

Thường nghe giảng rằng câu thơ của Âu công cũng như câu cổ thi thượng dẫn ngụ ý nói về sự may rủi trong việc thi cử. Cũng có  phần  đúng. Song tôi nhận thấy rằng vị thần áo đỏ của Âu công là  một hình ảnh để tượng trưng

 

 

 

cho tấm lòng son, tức là lòng công bình minh chính, tức là lương tâm  nhà nghề của duyệt giả. Văn chương không bằng cứ thì duyệt giả  dựa vào lòng công minh, dựa vào lương tâm của mình mà đánh giá thấp cao, mà thủ hay xả.

 

Nhưng lòng công minh của duyệt giả cũng như của trường quan, đâu  có bằng cứ?! Đâu có phải khuôn vàng thước ngọc, bất di bất dịch?! Lòng công minh của con người tùy thuộc nhiều  yếu  tố  chủ  quan  như  khách quan như  lập trường, trình độ học vấn, trình độ nhận thức, hoàn cảnh xã hội…

 

Cho nên từ xưa đến nay, không ai dám đưa ra một định luật để  phán đoán về sự đắc thất, mức cao hạ của văn chương.

 

Tuy vậy, để giúp cho kẻ hậu sinh một vài đường lối đi vào rừng thơ, cổ nhân vạch ra ba tiêu chuẩn:

 

- Đạt ý là diễn tả được những gì tác giả muốn diễn tả

 

- Truyền cảm là làm cho độc giả rung rộng khi đọc thơ

như tác giả đã rung động khi làm thơ

 

- Trì hứng là giữ lòng thích thú của người đọc được lâu bền, tức đọc rồi còn muốn đọc nữa.

 

Bài thơ nào gồm đủ 3 yếu tố đó là bài thơ hay.

 

Song tài diễn đạt, sức truyền thụ, độ duy trì có cao có thấp. Cho nên thơ hay có ba đẳng là Ưu, Bình, Thứ và mỗi đẳng chia làm ba hạng là Thượng, Trung, Hạ. Tổng cộng là 9 bậc, gọi là cửu phẩm văn chương.

 

Tiêu chuẩn đã có, cấp bậc đã có, khách yêu thơ cứ theo đó, nếu mình chấp nhận, mà chọn lựa, mà phân hạng, số thơ mình đã có sẵn trong tay.

 

 

 

 


 

Thơ Đường luật còn truyền tụng, từ đời Trần cho đến nay, e không quá 3.000 thiên.

 

Có người hỏi tôi, trong số thơ tôi đã được đọc những bài nào thuộc vào “Ưu đẳng Thượng hạng” trong chín phẩm văn chương nói trên. Tôi mạnh dạn đáp:

 

Những bài như bài Khóc Chồng của Hồ Xuân Hương, Đề Nghĩa Lư của Phạm Thái, Thăng Long Thành Hoài Cổ của bà Huyện Thanh Quan… là những bài hay tuyệt đỉnh.

 

Những bài này không mấy ai không biết.

 

Duy bài Khóc Chồng của bà Hồ, bài mà tôi cho là tuyệt diệu, là bài tôi nghe truyền sau đây:

 

Trăm năm ông phủ Vĩnh Tường ơi Chưa chẵn ba mươi cũng một đời Chôn chặt văn chương ba thước đất Ném tung hồ thỉ bốn phương trời Nắm xương dưới ván chau mày khóc Hòn máu trên tay mỉm miệng cười Hăm bảy tháng trời là mấy chốc Trăm năm ông phủ Vĩnh Tường ơi!

 

Chớ không phải là bài mà phần nhiều các sách chép với cặp luận:

 

Đòn cân tạo hóa rơi đâu mất

Ming túi càn không khép lại thôi.

 

Bài này tôi đã nói kỹ trong tập Hương Vườn Cũ, nên ở đây chỉ nêu điểm sai khác giữa sách và tôi mà thôi.

 

Những  bài của Phạm Thái, của bà Huyện cũng  đã nói nhiều trong tập thi thoại Hương Vườn Cũ. Để thêm thú xin trích đôi câu kiệt xuất:

 

- Cỏ biếc chẳng treo hồn Sở trướng

 

 

13


 

Trúc vàng thà điểm giọt Ngu cung

 

- Dệt gấm Thanh Nê câu nhất tiếu Thêu nền Thúy Ái chữ tam tùng (Phạm Thái)

 

- Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo

Nn cũ lâu đài bóng tịch dương

 

- Gác mái ngư ông về viễn phố

Gõ sừng mục tử lại cô thôn

(Bà Huyện Thanh Quan)

 

Đó là những câu thơ đẹp trong những câu thơ đẹp nhất của Việt  Nam,  đẹp  không  nhượng  những  câu  thơ  đẹp  của Đường, Tống, Minh, Thanh.

 

Cũng  thuộc  về  ưu  hạng,  những  bài  Thu  của  Nguyễn Khuyến,  bài Ký Nội của Phan Thanh Giản, bài Vịnh Hồ Hoàn Kiếm của Nguyễn Cảnh Tuân…

 

Thơ của Nguyễn Khuyến, Phan Thanh Giản, nhiều người biết. Thơ  của Nguyễn Cảnh Tuân chưa được phổ  biến trong làng thơ:

 

Bóng tháp lô nhô lớp sóng cồn Nhịp cầu nho nhỏ ghếch sườn non Nước trong đã vắng tăm thần kiếm Đường rộng còn bia dấu pháp môn Kim cổ treo chung tranh thủy mặc

Tang thương chớp nhoáng bóng hoàng hôn

Nghìn năm suy thịnh gương còn đó

Coi thử vầng trăng khuyết chửa tròn.

 

Cặp  luận tuyệt  diệu.  So  với câu  của  bà Huyện Thanh

Quan:

 

 

 

 

 


 

Sóng lớp phế hưng coi đã rộn

Chuông hồi kim cổ lắng càng mau

 

Thì một bên là Điêu Thuyền, một bên là Tây Thi, khó phân hơn kém.

 

Có nhiều tuyệt phẩm cũng như bài Hồ Hoàn Kiếm của họ Hoàng, không được nhiều người biết, nhiều người thuộc. Ví dụ 2 bài sau đây của Phan Sào Nam:

 

KHÓC TRƯƠNG GIA MÔ

 

Em muốn thăm anh chửa kịp vào

Đi đâu anh vội chán đời sao

Lánh Tần may có nguồn Đào nữa Tìm Tống e không mãnh đất nào Mây bạc nước non người vắng vẻ Chim vàng mưa gió bạn lao xao Giang Nam còn phú ai chăng nhớ

Tiếng cuốc lưng ghềnh mấy đoạn đau.4

 


©2010 -2024  Chùa Bửu Minh | Homepage