Chùa Bửu Minh

NSGN - Các bản kinh Tứ thập nhị chương hiện đang lưu hành, đều ghi rằng, kinh Tứ thập nhị chương do Ca Diếp Ma Đằng và Trúc Pháp Lan cùng dịch. Cơ sở của thông tin này dựa vào đâu và thông tin đó xác thực đến mức độ nào?




1. Về hai ngài Ca Diếp Ma Đằng và Trúc Pháp Lan

Theo Xuất Tam Tạng ký tập

Trong Bài tựa kinh Tứ thập nhị chương nằm trong Xuất Tam Tạng ký tập, quyển sáu[i], thì phái đoàn cầu pháp đã sang Đại Nguyệt Chi, trích tuyển được kinh Tứ thập nhị chương và sau đó đựng trong 14 chiếc hòm bằng đá. Bài tựa kinh Tứ thập nhị chương không chỉ ra ai là người đã trích tuyển và không đề cập đến danh tánh hai ngài Ca Diếp Ma Đằng và Trúc Pháp Lan.

Tuy nhiên, trong quyển thứ hai của Xuất Tam Tạng ký tập, đã cho rằng, phái đoàn cầu pháp: Vừa đến nước Đại Nguyệt Chi, thì gặp Sa-môn Trúc Ma Đằng, dịch rồi sao chép kinh này và trở về Lạc Dương, cất giữ trong gian thạch thất thứ 14 của lầu Ngự Sử[ii].

Theo Lịch đại Tam bảo ký

Trong quyển bốn, Ca Diếp Ma Đằng còn có tên là Trúc Nhiếp Ma Đằng hoặc Nhiếp Ma Đằng, là người dịch kinh Tứ thập nhị chương ở chùa Bạch Mã.

Tuy nhiên, cũng trong quyển này, ở phần sau, khi nói về Tôn giả Trúc Pháp Lan, tác phẩm này cho rằng, vào đời Minh Đế, lúc đầu tiên, Trúc Pháp Lan đã cùng Ca Diếp Ma Đằng cùng dịch kinh Tứ thập nhị chương, tuy nhiên, do Ca Diếp Ma Đằng viên tịch, nên Trúc Pháp Lan tự mình dịch bộ kinh này[iii].

Cũng trong quyển này, Phí Trường Phòng đã dẫn lời của ngài Bảo Xướng cho rằng: Tứ thập nhị chương do Trúc Pháp Lan dịch. Bằng chứng nghi ngờ đó có lẽ cho thấy rằng, Trúc Pháp Lan đã đến cùng với Nhiếp Ma Đằng[iv].

Theo Chúng kinh mục lục

Trong quyển 2, tác phẩm này cho rằng, kinh Tứ thập nhị chương do Trúc Pháp Lan và những người khác dịch vào năm Vĩnh Bình, đời Hậu Hán[v].

Theo Khai nguyên thích giáo lục

Trong quyển thứ nhất ghi rằng, Sa-môn Ca Diếp Mà Đằng dòng dõi Bà-la-môn, bác học đa văn. Khi phái đoàn cầu pháp của vua Hán Minh Đế sang Đại Nguyệt Chi cầu pháp thì gặp Ca Diếp Ma Đằng. Đoàn thỉnh ngài về Lạc Dương, phái đoàn đã dùng ngựa trắng chở kinh sách và Phật tượng. Sau đó, Ca Diếp Ma Đằng dịch kinh Tứ thập nhị chương tại chùa Bạch Mã[vi].

Theo Cao tăng truyện

Phái đoàn cầu pháp của vua Hán Minh Đế gặp Tôn giả Nhiếp Ma Đằng tại Thiên Trúc. Phái đoàn đã thỉnh ngài về Lạc Ấp (Lạc Dương). Vua Hán Minh Đế đã dựng một tinh xá ở ngoài cửa thành Tây, và từ đây, đất Hán có vị Tăng đầu tiên vậy. Có tư liệu cho rằng (有記云), Nhiếp Ma Đằng dịch kinh Tứ thập nhị chương một quyển, lúc đầu được lưu giữ tại gian nhà thứ 14 của tòa thạch thất Ngự Sử.

Về ngài Trúc Pháp Lan, người trung Thiên Trúc, là học giả bậc thầy. Thuở nhỏ đã giỏi chữ Hán, đã dịch năm bộ kinh như Thập địa, Đoạn kết, Phật bổn sinh, Pháp hải tạng Phật bổn hạnh, Tứ thập nhị chương. Do loạn lạc nên phần lớn các bộ kinh ấy bị thất truyền, hiện tại ngày nay, ở miền Giang Tả chỉ còn bộ kinh Tứ thập nhị chương với hơn hai ngàn chữ. Trong những bộ kinh hiện còn từ thời Hán, chỉ có bộ này là đầu tiên vậy[vii].

2. Nhận định về tư liệu đã dẫn

Trong những nguồn tư liệu vừa dẫn ở trên, có nhiều điểm không thống nhất về dịch giả bản kinh Tứ thập nhị chương.

Về Tôn giả Ca Diếp Ma Đằng, trong tư liệu kinh lục Xuất Tam Tạng ký tập chỉ ghi rằng, phái đoàn thỉnh kinh đã gặp Sa-môn Trúc Ma Đằng, dịch rồi sao chép kinh này và trở về Lạc Dương[viii]. Tư liệu này không xác định ai đã dịch bộ kinh này. Tư liệu Lịch đại Tam bảo ký cho rằng Trúc Ma Đằng dịch kinh tại chùa Bạch Mã, tác phẩm Khai nguyên thích giáo lục cũng đồng ý với quan điểm này. Cẩn trọng hơn, trong Cao Tăng Truyện của Huệ Hạo, mặc dù cũng cho rằng Ca Diếp Ma Đằng đã dịch kinh Tứ thập nhị chương ở chùa Bạch Mã, nhưng không chỉ ra chính xác đó là tài liệu nào. Trong khi đó, ngài Đạo An mặc dù biết đến chùa Bạch Mã[ix], nhưng không biết đến bản kinh Tứ thập nhị chương, nên không đưa vào tác phẩm Chúng kinh mục lục của mình. Không những thế, việc phái đoàn sang Tây Vực cầu pháp được lưu xuất từ Bài tựa kinh Tứ thập nhị chương. Trong khi đó, Bài tựa kinh Tứ thập nhị chương còn nhiều điều bất cập về niên đại[x], và do vậy, chưa đủ thông tin để khẳng định rằng ngài Ca Diếp Ma Đằng đã dịch kinh Tứ thập nhị chương.

Với ngài Trúc Pháp Lan, Lịch đại Tam bảo ký đã xác tín rằng, Tôn giả Trúc Pháp Lan đã tự mình dịch kinh Tứ thập nhị chương sau khi Trúc Ma Đằng viên tịch. Và cũng trong chương này, Phí Trường Phòng đã dẫn lời Bảo Xướng khi cho rằng, kinh Tứ thập nhị chương do chính Trúc Pháp Lan dịch. Trong Chúng kinh mục lục đã khẳng định dứt khoát rằng, kinh Tứ thập nhị chương do Trúc Pháp Lan và những người khác dịch vào năm Vĩnh Bình, đời Hậu Hán. Đặc biệt, trong Cao tăng truyện, thông tin về Trúc Pháp Lan được đề cập khá rõ. Đó là một học giả uyên thâm, tinh thông Hán ngữ, đã dịch năm bộ kinh, di cảo dịch thuật đến thời ngài Huệ Hạo (497-554) chỉ còn lại bộ kinh Tứ thập nhị chương.

Như vậy, quan điểm cho rằng Trúc Pháp Lan chính là tác giả dịch kinh Tứ thập nhị chương có cơ sở hơn Ca Diếp Ma Đằng.

Khi khảo sát những chi tiết liên quan đến cuộc đời của ngài Trúc Pháp Lan, đã mở ra một hướng nghĩ mới về một dịch giả ẩn danh của bản kinh Tứ thập nhị chương. Thông tin quan trọng đó chính là, ngài Trúc Pháp Lan là bổn sư truyền ngũ giới cho cư sĩ Chi Khiêm

3. Chi Khiêm thọ giới với Trúc Pháp Lan và việc dịch kinh Tứ thập nhị chương

Theo Xuất Tam Tạng ký tập quyển 13, truyện Chi Khiêm, thứ sáu[xi]. Chi Khiêm tự Cung Minh, còn có tên là Việt, tổ phụ là Pháp Độ, xuất thân từ nước Đại Nguyệt Chi. Từ nhỏ đã có tính thương người, thương vật. Năm mười tuổi học kinh thư, có trí thông minh mẫn tiệp. Năm mười ba tuổi học sách vở tiếng Phạn và thông thạo ngôn ngữ của sáu nước. Đời Hán Linh Đế, đệ tử của ngài Chi Sấm là Chi Lượng sang Trung Thổ. Chi Khiêm bèn theo Chi Lượng học Phật pháp. Cuối đời Đông Hán, Chi Khiêm chạy loạn đến nước Ngô.

Ngô Tôn Quyền nghe tiếng bác học, tài năng trí tuệ xuất chúng của Chi Khiêm, nên triệu ông vào tham vấn về sự thâm áo của Phật pháp. Chi Khiêm tùy theo căn cơ mà ứng đáp minh bạch. Vừa nghe qua, Ngô Tôn Quyền rất vui mừng, bèn bái Chi Khiêm làm Bác Sĩ, đảm nhậm chức Bổ Đạo Đông Cung. Đương thời, đã có rất nhiều kinh điển được truyền vào đất Ngô, nhưng phần lớn là kinh tiếng Phạn, do thông thạo chữ Hán và chữ Phạn, cùng ngôn ngữ của sáu nước, nên Chi Khiêm đã phát tâm phiên dịch ra chữ Hán nhiều bộ kinh điển. Từ năm Hoàng Vũ nguyên niên (222) đến năm cuối Kiến Hưng (253), Chi Khiêm phiên dịch khoảng hai mươi bảy bộ kinh. Theo Cao tăng truyện, truyện của ngài Khương Tăng Hội, thì Chi Khiêm dịch đến 49 bộ kinh[xii]. Lúc thái tử lên ngôi, bỏ qua thế sự cuộc đời, Chi Khiêm vào ẩn cư nơi núi Khung Ải và cầu ngài Trúc Pháp Lan thọ năm giới, và sống ở đó cho đến lúc qua đời.

Ngoài tư liệu Xuất Tam Tạng ký tập, cho rằng, Chi Khiêm cầu thọ ngũ giới với Trúc Pháp Lan, thì Khai nguyên thích giáo lục[xiii], quyển thứ hai cũng khẳng định điều tương tự.

Trong nhiều bản dịch kinh điển, Chi Khiêm trân trọng ghi phía trước tên mình ba chữ Ưu Bà Tắc, đó cũng là một cách khẳng định vai trò cư sĩ của mình nói riêng, và đồng thời gian tiếp chia sẽ thông tin mình là đệ tử của ngài Trúc Pháp Lan.

Theo Lịch đại Tam bảo ký, quyển thứ năm, thì trong ba mươi sáu bộ, hoặc 49 kinh do Chi Khiêm dịch, thì có kinh Tứ thập nhị chương[xiv]. Theo Sa-môn Thích Tĩnh Mại trong tác phẩm Cổ kim dịch kinh đồ ký[xv], quyển thứ nhất, thì Chi Khiêm dịch tổng cộng 129 bộ kinh, hợp thành 152 quyển, trong số đó có bản kinh Tứ thập nhị chương. Được biết, ngài Thích Tĩnh Mại, là một trong 11 vị Tăng được tinh tuyển tham dự vào Viện dịch kinh Từ Ân Tự[xvi], do đó, thông tin của ngài về bản kinh Tứ thập nhị chương do Chi Khiêm dịch là có cơ sở.

4. Đi tìm bối cảnh ra đời cũng như dịch giả ẩn danh của bộ kinh Tứ thập nhị chương

Để tìm được tác giả ẩn danh đã dịch kinh Tứ thập nhị chương, nên chăng chúng ta thử điểm qua vài nét về những tác giả dịch kinh Pháp cú. Vì lẽ, từ bản dịch kinh Pháp cú của Duy Kỳ Nan, có thể phần nào cho thấy tác giả thực sự của kinh Tứ thập nhị chương là ai.

Theo Xuất Tam Tạng ký tập, quyển hai, thì kinh Pháp cú có 2 quyển, do Trúc Tương Diễm và Chi Khiêm dịch. Cũng trong tác phẩm này, phần truyện của ngài Đạo An, đã bổ sung thêm thông tin: Sa-môn Duy Kỳ Nan người Thiên Trúc, vào năm Hoàng Vũ thứ ba (224) thời Ngô Tôn Quyền, đã đem Phạn bản kinh Đàm bát đến Vũ Xương. Đàm Bát tức kinh Pháp cú. Khi đó Chi Khiêm cầu thỉnh dịch kinh ấy nên Duy Kỳ Nan đã nhờ bạn đồng đạo là Trúc Tương Diễm phiên dịch, Chi Khiêm viết sang Hán văn[xvii]. Theo, Đại Đường nội điển lục, quyển bảy[xviii], thì Chi Khiêm dịch toàn bộ hai quyển kinh Pháp cú. Trong Chúng kinh mục lục, quyển 6[xix] cũng cho rằng Chi Khiêm dịch hai quyển Pháp cú tập.

Theo bài tựa kinh Pháp cú do Chi Khiêm viết, có đoạn: Kẻ quê mùa này được ngài Duy Kỳ Nan truyền cho bản Pháp cú gồm 500 bài kệ, nên đã thỉnh cầu đồng đạo của thầy ấy là ngài Trúc Tương Diễm dịch. Tương Diễm tuy giỏi tiếng Phạn nhưng vốn chữ Hán vẫn chưa hoàn bị. Những lời dịch của ông ta có khi đúng với Phạn ngữ, có khi căn cứ vào nghĩa để dịch âm nên bản dịch còn mang tính thô phác, Chi Khiêm e rằng do vì văn chương không giỏi[xx]. Mở rộng tìm hiều về khả năng ngôn ngữ của hai ngài Duy Kỳ Nan và Trúc Tương Diễm thì được biết, Duy Kỳ Nan không rành lắm về ngôn ngữ của chính nước mình (難既未善國語) và bạn đồng tu là Tương Diễm cũng không giỏi về Hán ngữ (炎亦未善漢言)[xxi] và do vậy, Chi Khiêm, một vị cư sĩ thông thạo sáu ngoại ngữ, đã hiệu đính theo nghĩa dịch lại toàn bộ bản kinh Pháp cú để thành một tác phẩm hoàn chỉnh.

Vai trò của Chi Khiêm đối với dịch phẩm kinh Pháp cú rất lớn, thế nhưng, ngay như Bài tựa của kinh Pháp cú của Chi Khiêm, cũng xếp nằm ở giữa cuốn thượng và cuốn hạ. Không những thế, trên dòng đề tên tác giả thì chỉ ghi do Duy Kỳ Nan và những người khác cùng dịch. Điều đó đã chứng minh ông quả thật sống đúng với tên của mình: Chi Khiêm (), một người khiêm nhường ở nước Đại Nguyệt Chi.

Trở lại với bản  kinh Tứ thập nhị chương, nối kết lại những thông rời rạc liên quan đến bộ kinh này đã cho thấy, bối cảnh ra đời cũng như ai là dịch giả chủ yếu, có nhiều điểm tương đồng như bản kinh Pháp cú của Duy Kỳ Nan.

Trước hết, mặc dù vẫn chưa xác định được thời điểm chính xác Chi Khiêm cầu thọ ngũ giới với Trúc Pháp Lan, chưa rõ vào giai đoạn trung niên hay lúc cuối đời, theo văn cảnh thì có vẽ như vào lúc cuối đời, thế nhưng vẫn có thể xác định rằng, Trúc Pháp Lan sống cùng thời với Chi Khiêm.

Thứ hai, có khả năng Trúc Pháp Lan đã tự mình dịch kinh Tứ thập nhị chương, theo thông tin từ tác phẩm Lịch đại Tam bảo ký, quyển bốn. Tuy nhiên, do hạn chế về ngôn ngữ, trình độ Phật học nói chung, nên bản dịch chưa hay, và có thể nói là chưa hoàn thành.

Thứ ba, với vốn Phật học phong phú vì đã dịch hơn 49 bộ kinh, căn cứ theo Cao tăng truyện, hoặc 129 bộ kinh, nói theo Cổ kim dịch kinh đồ ký, thì Chi Khiêm có thể hiệu đính xuất sắc bản dịch kinh Tứ thập nhị chương của Trúc Pháp Lan. Hiện tại, trong ĐTKĐCTT còn lưu giữ 55 bộ kinh do Chi Khiêm dịch, đã chứng minh năng lực dịch thuật của Chi Khiêm. Ở đây, với những tư liệu kinh lục cho rằng, chỉ riêng một mình Chi Khiêm dịch kinh Tứ thập nhị chương, vì có thể việc hiệu đính bản kinh Tứ thập nhị chương của Chi Khiêm giống như một bản dịch mới.

Thứ tư, bản kinh Tứ thập nhị chương có nguồn gốc từ Đại Nguyệt Chi. Đại Nguyệt Chi có giai đoạn là một quốc gia rộng lớn, có trung tâm Phật giáo nỗi tiếng Gandhara với các thủ bản kinh cổ bằng ngôn ngữ Kharostthi còn lưu lại đến này ngay[xxii]. Chi Khiêm vốn là người nước này, cộng với lợi thế am tường sáu ngôn ngữ, thế nên sẽ gặp nhiều thuận lợi trong việc phiên dịch kinh điển có nguồn gốc từ Đại Nguyệt Chi.

Thứ năm, với bản chất khiêm hạ của mình, mặc dù hiệu đính bản dịch của thầy mình là Trúc Pháp Lan, thế nhưng Chi Khiêm vẫn không lưu lại tên mình, như trường hợp kinh Pháp cú của Duy Kỳ Nan chẳng hạn. Ở đây, để ghi nhận công lao của những người có công đem kinh Tứ thập nhị chương sang đất Hán, Chi Khiêm đã giữ nguyên tên của ngài Ca Diếp Ma Đằng, như là một sự tôn trọng về cội nguồn du nhập của bản kinh.

Như vậy, theo suy luận của chúng tôi, bối cảnh xuất hiện của kinh Tứ thập nhị chương được dựng lên là: Việc các vua nhà Hán sai sứ đi Đại Nguyệt Chi là có thật. Trong những chuyến giao lưu tiếp biến văn hóa trên con đường Tơ Lụa, đã tiếp nhận thư tịch Phật giáo. Ca Diếp Ma Đằng là một trong những đại diện tiêu biểu, có công lao trích tuyển, sao chép bản kinh Tứ thập nhị chương bằng ngôn ngữ Đại Nguyệt Chi[xxiii], sau đó bản kinh được đưa vào đất Hán và giữ gìn ở Thư viện hoàng gia (蘭 臺 石 室)[xxiv]. Trúc Pháp Lan đã dịch kinh ấy nhưng văn nghĩa chưa trọn vẹn, sau đó, được đệ tử năm giới là Chi Khiêm hiệu đính và hoàn thành xuất sắc dịch phẩm. Vì tôn trọng Thầy của mình, vì bản tính khiêm hạ, nên Chi Khiêm chỉ ghi Trúc Pháp Lan như là dịch giả chính thức và Ca Diếp Ma Đằng như là tác giả sao lục bộ kinh này.

Thông tin về Chi Khiêm dịch kinh Tứ thập nhị chương cũng khẳng định thêm một vấn đề quan trọng: bản kinh Tứ thập nhị chương có niên đại xuất hiện vào giữa những năm 222-253[xxv]




[i]大正新脩大藏經第 55 冊 No. 2145出三藏記集序卷第六 . .

[ii] 大正新脩大藏經第 55 冊 No. 2145 出三藏記集錄上卷第二, 新集經論錄第一. Nguyên văn: 始 於 月 支 國 遇 沙 門 竺 摩 騰. .  藏 在 蘭 臺 石 室 第 十 四 間 中. 

[iii]大正新脩大藏經第 49 冊 No. 2034 歷代三寶紀, . Nguyên văn: 明帝世翻初共騰出四十二章. 騰卒. 蘭自譯.

[iv]大正新脩大藏經第 49 冊 No. 2034 歷代三寶紀, . Nguyên văn: 寶唱又云. 是竺法蘭譯. 此或據其與攝摩騰同時來耳.

[v]大正新脩大藏經第 55 冊 No. 2147 眾經目錄卷第二.

[vi]大正新脩大藏經第 55 冊 No. 2154 開元釋教錄, 卷第一總錄之一 .

[vii]大正新脩大藏經第 50 冊 No. 2059 高僧傳,卷第一 .

 

[ix]大正新脩大藏經第 50 冊 No. 2059高僧傳卷第五. Nguyên văn: 安以白馬寺狹.乃更立寺名.

[x] Bài tựa kinh Tứ thập nhị chương đề cập về câu chuyện Hán Minh Đế mộng người vàng. Về mặt văn bản, theo như lưu ý của ngài Tăng Hựu, thì chưa rõ tác giả của tư liệu này là ai (未詳作者), thế nên mức độ chứng thực của tài liệu không đảm bảo. Không những thế, có một chữ Hán (漢) nhấn mạnh bổ sung và chữ Hiếu Minh Hoàng Đế (孝明皇帝) vốn là thụy hiệu của Hán Minh Đế. Mặt khác, chữ Ngày xưa (昔) xuất hiện đầu tiên trong bản văn và năm chữ cuối: mãi đến nay không dứt (于今不絕也) cho thấy rằng bài tựa này được hình thành khá muộn, ít nhất sau thời nhà Hán và có khả năng trong thời ngài Tăng Hựu. Trong bài tựa có đề cập đến một vị Trung lang tướng tên là Trương Khiên (張 騫…中 郎 將). Theo Sử ký Tư mã thiên, tập sáu mươi ba, Đại uyển liệt truyện, vị Trung lang tướng này là người từng đi Đại Nguyệt Chi, là người có công mở mang con đường thông thương, trao đổi hàng hóa giữa Trung Quốc với các nước trên Con đường Tơ lụa. Điều đáng chú ý, Trung lang tướng Trương Khiên sống ở thời Tây Hán, dưới triều vua Hán Vũ Đế, đã từng đi sứ Đại Nguyệt Chi và năm Kiến Nguyên thứ 2 (139 TCN). Ở đây, nếu như Bài tựa kinh Tứ thập nhị chương đề cập chính là vị Trung lang tướng Trương Khiên này, thì quả là môt sự thêm thắt không phù hợp với niên đại.

[xi]大正新脩大藏經第 55 冊 No. 2145 出三藏記集, 卷第十三.

[xii]大正新脩大藏經第 50 冊 No. 2059 高僧傳, 卷第一.

[xiii]大正新脩大藏經第 55 冊 No. 2154 開元釋教錄, 卷第二.

[xiv]大正新脩大藏經第 49 冊 No. 2034 歷代三寶紀, .

[xv]大正新脩大藏經第 55 冊 No. 2151 古今譯經圖紀, 卷第一 .

[xvi]大正新脩大藏經第 50 冊 No. 2061 宋高僧傳, 卷第四唐簡州福聚寺靖邁傳. Nguyên văn: 得一十一人邁預其精選. 即居慈恩寺也.

[xvii]大正新脩大藏經第 55 冊 No. 2145 出三藏記集, 卷第二. Nguyên văn:   後有沙門維秖難者. 天竺人也. 以孫權黃武三年齎曇鉢經胡本來至武昌. 曇鉢即法句經也. 時請出經. 乃令其同道竺將炎傳譯. 謙寫為漢文.

[xviii]大正新脩大藏經第 55 冊 No. 2149 大唐內典錄, 卷第七.

[xix]大正新脩大藏經第 55 冊 No. 2146 眾經目錄, 卷第六.

[xx]大正新脩大藏經第 04 冊 No. 0210 卷上 , 序.Nguyên văn: 僕從受此五百偈本. 請其同道竺將焰為譯. 將焰雖善天竺語未備曉漢. 其所傳言或得梵語. 或以義出音. 迎質真樸初謙其為辭不雅.

[xxi]大正新脩大藏經第 50 冊 No. 2059 , 高僧傳, 卷第一, 維祇難七.

[xxii] Richard Salomon, Ancient Buddhist Scrolls from Gandhara, Seattle: University of Washington Press, 1999.

[xxiii]大正新脩大藏經第 55 冊 No. 2145 出三藏記集錄上卷第二, 新集經論錄第一.

[xxiv] 蘭 臺 石 室, cũng tương tự như : Nhà chứa sách, thư viện.

[xxv] Trong Nguyệt San Giác Ngộ số tháng 11.2013, trong bài Bàn về niên đại, truyền bản và vài khía cạnh đặc thù của kinh Tứ thập nhị chương, chúng tôi ước đoán rằng, kinh Tứ thập nhị chương có niên đại vào khoảng cuối thế kỷ thứ tư và đầu thế kỷ thứ năm. Đây là một suy luận chưa đúng do hạn chế về tư liệu, chúng tôi xin thành thật cáo lỗi cùng bạn đọc.

Chúc Phú

http://giacngo.vn/nguyetsan/tulieu/2014/02/16/16E450/


©2010 -2024  Chùa Bửu Minh | Homepage