Phật giáo xem từ bi
và tình thương là hai thể dạng khác nhau phát sinh từ một sự hiển lộ
chung : từ bi là ước vọng nhìn thấy chúng sinh không còn khổ đau nữa, và
tình thương là ước vọng mong muốn chúng sinh được hạnh phúc.
Tiếp theo đó, phải tự hỏi vun xới tình thương và lòng từ bi có thể
thực hiện được hay chăng. Nói một cách khác, có một phương thức nào làm
gia tăng các phẩm tính ấy và đồng thời làm suy giảm nóng giận, hận thù
và ganh tị hay không ? Tôi sẽ nhất định trả lời là : « Có ! » và không
do dự một chút nào cả. Dù ngay trong lúc này đây, nếu như quý vị không
đồng ý với tôi đi nữa, tôi cũng xin quý vị hãy tạm thời đừng chống lại
quan điểm ấy. Trước hết chúng ta hãy cùng nhau nêu lên một vài kinh
nghiệm làm thí dụ : rồi biết đâu sau đó chúng ta sẽ tìm ra một lời giải
đáp chung cho vấn đề trên đây.
Trước nhất, phải hiểu rằng hạnh phúc và khổ đau gồm hai thể dạng căn
bản : tinh thần và thể xác. Đối với phần đông chúng ta, dạng thể tinh
thần tác động mạnh mẽ hơn. Vật chất giữ một vai trò kém hơn, ngoại trừ
trường hợp đang đau ốm trầm trọng hoặc đang trong hoàn cảnh cùng quẫn
đến tột độ. Trong những lúc thân xác không đòi hỏi gì cả, có thể ta
không chú ý đến nó làm gì. Ngược lại, tâm thức thì lúc nào cũng ghi nhận
tất cả, kể cả những biến cố thật nhỏ nhặt. Vì thế, phát động nghị lực
làm cho tâm thức lắng xuống là một việc khó khăn hơn nhiều so với những
lo toan tìm cách cung phụng tiện nghi cho thân xác.
Tâm thức có thể biến cải được
Mặc dù kinh nghiệm của tôi còn hạn hẹp, nhưng tôi vẫn tin rằng nhờ
vào sự tập luyện đều đặn, ta có thể hoàn toàn biến cải được tâm thức.
Cách cư xử, cũng như tư duy và xu hướng tích cực đều có thể làm cho gia
tăng thêm, và ngược lại những gì tiêu cực hàm chưa trong ta đều có thể
làm cho giảm xuống. Ý thức được điều đó sẽ giúp ta biến cải và thay đổi
tâm thức. Sự thật đơn giản trên đây là những gì thuộc vào bản chất của
tâm thức.
Cái mà ta gọi là « tâm thức » thật lạ lùng. Đôi khi nó rất bướng bỉnh
và cưởng lại mọi sự thay đổi. Tuy nhên, nhờ vào sự cố gắng thường xuyên
và niềm tin vững chắc dựa trên lý trí, tâm thức cũng có thể tỏ ra mềm
dẻo và rất lương thiện. Khi ta nhận thấy cần phải thay đổi, lúc đó tâm
thức cũng sẽ sẳn sàng thay đổi. Ước vọng suông hay chỉ biết đơn giản cầu
nguyện sẽ không đủ sức làm cho tâm thức đổi thay ; phải ghép thêm vào
đó thành phần lý trí – tức những gì dựa một cách thật vững chắc vào kinh
nghiệm. Ta không thể nào biến cải tâm thức trong một sớm một chiều :
thói quen lâu đời, nhất là nhưng thói quen tinh thần luôn luôn cưỡng lại
những giải pháp hời hợt. Nhưng với sức cố gắng và lòng tin vững chắc
phát xuất từ sự hiểu biết, những thể dạng tâm thần của ta có thể sửa
chữa được một cách thật sâu xa.
Muốn thăng tiến, trước hết phải chấp nhận khi nào ta vẫn còn sống
trong thế gian này, thì lúc đó ta vẫn còn gặp khó khăn và các chướng
ngại cản trở nguyện vọng của ta. Khi các khó khăn hiện ra làm cho ta
nhụt chí và mất hết hy vọng, lúc đó ta sẽ không còn khả năng nào để đối
đầu với chúng. Ngược lại, khi đã hiểu rằng khổ đau không phải chỉ duy
nhất giành riêng cho ta, mà đấy là số phận chung của mọi người, ta sẽ
quyết tâm hơn và cảm thấy có nhiều khả năng hơn để vượt lên trên tất cả
mọi chướng ngại. Với tấm lòng từ bi sẳn có, ta ý thức được kẻ khác cũng
khổ đau như ta, lúc đó ta sẽ xử lý dễ dàng hơn những khổ đau của riêng
mình. Đấy là cách thăng tiến trong sự tu tập, mỗi chướng ngại đều là một
cơ may quý giá giúp ta nâng cao giá trị của tâm thức và đồng thời cũng
giúp ta củng cố thêm sự vững chắc của lòng từ bi ! Mỗi một kinh nghiệm
mới đều là một dịp may giúp ta tập luyện để trở thành từ bi hơn, điều đó
có nghĩa là trong từng kinh nghiệm ta lại cố gắng thêm để phát lộ lòng
xót thương chân thật trước những khổ đau của kẻ khác, và đồng thời làm
gia tăng lòng quyết tâm của ta trong mục đích làm bớt đi khổ đau cho họ.
Từ bi nâng cao sự trong sáng và sức mạnh nội tâm của ta.
Làm thế nào để vun xới lòng từ bi
Chủ trương chỉ biết có mình là xu hướng chung của tất cả mọi người,
chỉ khác nhau ở mức độ mà thôi, xu hướng ấy ngăn cản không cho ta yêu
thương kẻ khác. Muốn thật sự hạnh phúc, cần phải có một tâm thức phẳng
lặng, và sự an bình đó trong tâm thức chỉ có thể thực hiện nhờ vào lòng
từ bi. Vậy làm thế nào để phát huy một thái độ như thế ? Thật hết sức rõ
ràng, không phải chỉ tin vào những lợi ích của lòng từ bi là đủ, hoặc
chỉ biết say sưa với vẻ đẹp tuyệt vời của lòng từ bi là được ! Muốn vun
xới lòng từ bi, ta phải quyết tâm cố gắng lợi dụng tất cả mọi biến cố
đang xảy ra vào bất cứ lúc nào trong cuộc sống để tự biến cải tư duy và
thái độ của mình.
Trước hết cần phải hiểu một cách chính xác ý nghĩa của chữ từ bi là
gì. Vì thật ra lắm khi xúc cảm về từ bi chỉ là những gì hàm chứa dục
vọng và bám víu. Thí dụ, tình thương của cha mẹ đối với con cái không
phải là từ bi theo đúng với ý nghĩa của nó, bởi vì tình thương đó dễ bị
lầm lẫn với nhu cầu xúc cảm của cha mẹ. Thông thường, sự kiện chăm xóc
cho một người bạn thân thiết được xem là một nghĩa cử từ bi, nhưng thực
ra lắm khi cũng chỉ là sự bám víu. Khi một cặp vợ chồng được kết hợp và
cả hai chưa hiểu gì về tính tình của nhau, thì tình yêu lứa đôi lúc ấy
chỉ là sự bám víu, không hẳn là tình yêu thật sự. Hơn nữa, trong trường
hợp cuộc sống chung không kéo dài, thì đấy là do thiếu lòng từ bi mà ra :
vì sự kết hợp lứa đôi chỉ là hậu quả của những xúc cảm sinh ra từ sự
kiện bám víu vào những phóng ảnh của nhau và sự chờ đợi lẫn nhau ; đến
một lúc nào đó, khi những phóng ảnh biến đổi, bám víu cũng sẽ không còn.
Sự ham muốn có thể quá mạnh làm cho người mà ta bám víu có vẻ như không
có một khuyết điểm nào cả, nhưng thật ra là nhiều lắm. Chính đó là dấu
hiệu cho thấy tình yêu được thúc đẩy bởi nhu cầu cá nhân nhiều hơn là
sự quan tâm thật sự đến người đối diện.
Tuy thế, tỏ lộ từ bi nhưng không hề bám víu vẫn có thể thực hiện
được. Nhưng cần phải phân biệt thật rõ ràng giữa hai thứ tình cảm ấy. Từ
bi đích thực không phải là một phản ứng của xúc cảm, mà là một hành vi
dấn thân dựa một cách vững chắc vào lý trí. Lòng từ bị đích thực khi
được xây dựng trên nền móng vững chắc sẽ không biến đổi, dù cho người
tiếp nhận lòng từ bi phản ứng một cách tiêu cực đi nữa. Lòng từ bi như
thế mới đúng là lòng từ bi chân thành. Mục tiêu của người tu tập Phật
giáo là phát huy lòng từ bi chân chính và mong ước đem đến an vui cho kẻ
khác, kẻ khác ở đây có nghĩa là tất cả chúng sinh trong vũ trụ. Thật
hết sức dễ hiểu, vun xới lòng từ bi như thế không phải là chuyện dễ làm !
Vậy ta nên quán xét những điều sau đây thật cẩn thận.
Dù cho những người chung quanh xinh đẹp hay tầm thường, khả ái hay
độc ác, họ đều là những con người như ta. Cũng giống như ta, họ muốn
được hạnh phúc và không muốn gánh chịu đớn đau. Hơn nữa, quyền được hạnh
phúc và tránh khổ đau của họ cũng ngang hàng với ta. Hành vi biết công
nhận tất cả mọi con người đều ngang hàng với nhau trong ước vọng tìm
được hạnh phúc và có quyền ngang nhau để thực hiện điều ấy sẽ giúp ta
phát lộ dễ dàng tình thân thiện giữa họ và ta. Khi đã tập luyện và quen
dần với tình thần nhân ái toàn cầu đó, ta sẽ nhận thấy đấy chính là
trách nhiệm chung cho tất cả mọi người, và ta sẽ cố gắng tích cực hơn để
giúp đỡ kẻ khác giải quyết những khó khăn của họ. Trách nhiệm đó không
mang tính cách chọn lựa, nhưng trải rộng đồng đều và hướng vào tất cả
chúng sinh. Vì chưng, họ cũng như ta, tất cả đều bị chi phối bởi nhu cầu
hạnh phúc và lẩn tránh khổ đau, không có một căn bản hợp lý nào để căn
cứ vào để loại trừ hay ruồng bỏ bất cứ ai dù cho họ hành động không được
đúng đi nữa.
Tôi muốn dựa vào những điều trình bày trên đây để nhấn mạnh đến
trường hợp một số người tự nhận là thuộc loại thực tế và chủ trương tính
cách thực dụng trong sự sống, nhưng thật sự ra họ lại thường tỏ ra thực
tế một cách quá lố và họ chỉ nhìn thấy khía cạnh thực dụng của các biến
cố. Thật vậy, họ thường nói : « Ước mong tất cả chúng sinh đều được
hạnh phúc và mỗi chúng sinh đều tìm thấy hạnh phúc đúng như mình mong
muốn là điều không thể thực hiện được. Lý tưởng ấy nhất thiết không đem
đến hiệu quả gì cho tâm thức, cũng không giúp ích được gì hơn cho sự tu
tập tinh thần, vì nó hoàn toàn mang tính cách không tưởng ».
Theo họ, trong bước đầu chỉ cần quan tâm đến một nhóm người thu hẹp,
sự liên hệ trực tiếp sẽ dễ thực hiện hơn. Sau đó, sẽ nới rộng chu vi
tiếp cận và gia tăng thêm các yếu tố khác. Đối với họ, thật là vô bổ khi
nghĩ đến con số vô lượng chúng sinh. Họ có thể miễn cưỡng chấp nhận sự
liên hệ giữa họ và một số đồng loại sinh sống trên hành tinh này, nhưng
khi nói đến vô lượng chúng sinh trong vũ trụ thì quả thật là những gì
vượt quá xa, thoát ra khỏi lãnh vực kinh nghiệm của họ. Họ sẽ thốt lên :
« Có ích lợi gì đâu khi chủ trương một tâm thức mở rộng đến tất cả mọi
sinh linh ».
Có thể trong những bối cảnh khác, may ra quan điểm trên đây có một
giá trị nào đó. Nhưng trong trường hợp đang bàn thảo, phải nắm vững tác
động của những hành vi nhân ái. Mục đích là mở rộng chu vi của lòng nhân
từ, làm sao có thể trải rộng đến tất cả mọi hình thức của sự sống biết
cảm nhận khổ đau và hạnh phúc. Vì chính đó là cách công nhận sự nhậy cảm
nơi mọi sinh vật trước khổ đau và hạnh phúc.
Xúc cảm về lòng từ bi toàn cầu rất mạnh, không cần phải nhắm chính
xác vào từng chúng sinh mới có thể biến xúc cảm đó trở thành hữu hiệu.
Cách lý luận này cũng gần tương tợ với sự công nhận bản chất toàn cầu
của hiện tượng đổi thay ; thí du khi đã tu tập và đạt được một bậc cấp
hoàn hảo ta sẽ nhìn thấy mỗi vật thể và mỗi sự kiện đều vô thường, và
khi đó ta sẽ không còn cần đến cách quán xét từng hiện tượng một trong
số tất cả mọi hiện tượng trong vũ trụ mới đủ sức công nhận nguyên lý của
vô thường. Sự vận hành của tâm thức không giống như thế : phải hiểu rõ
điều này.
Thời gian và sự kiên nhẫn giúp ích rất nhiều, phát huy lòng từ bi
toàn cầu hoàn toàn nằm trong khả năng của ta. Nhất định chủ trưong chỉ
biết có mình và sự bám víu vào cảm giác một cái tôi duy nhất và tuyệt
đối sẽ tác động một cách ngấm ngầm để chận đứng lòng từ bi. Thật hết sức
rõ ràng, khi nào sự bám víu vào một cái tôi được tháo gỡ, lúc ấy ta mới
có thể sống với một tấm lòng từ bi đích thực. Tuy là như thế, nhưng ta
vẫn có thể bắt đầu nuôi nấng và phát triển lòng từ bi ngay từ bây giờ.
Bắt đầu bằng cách nào ?
Bắt đầu bằng cách loại bỏ những chướng ngại lớn lao cản trở lòng từ
bi : tức nóng giận và hận thù. Như chúng ta từng thấy, những xúc cảm cực
mạnh có thể làm cho tâm thức đảo điên. Tuy nhiên, hận thù và giận dữ
vẫn có thể khắc phục được. Nếu không đủ sức khống chế những xúc cảm đó,
chúng có thể sẽ đầu độc cả sự hiện hữu của ta, và – dù không cố tình đi
nữa –, chúng cũng sẽ ngăn chận không cho ta tận hưởng hạnh phúc do tình
thương yêu mang đến.
Nhưng cũng biết đâu quý vị có thể không xem sự giận dữ là một chướng
ngại ; vì thế, điểm khởi đầu cần phải phân tích xem giận dữ có mang đến
lợi ích hay chăng. Đôi khi một tình huống khó khăn nào đó làm cho ta
phẫn nộ, một cơn giận dữ hình như làm cho ta gia tăng thêm sinh lực, tự
tin và quyết tâm. Tuy thế, chính trong những giây phút đó ta cần phải
quan sát thật cẩn thận tình trạng tâm thức của ta. Thật vậy, giận dữ sẽ
làm gia tăng sinh lực, nhưng nếu ta quán xét bản chất của sinh lực đó,
ta sẽ thấy rằng đấy là một thứ sinh lực mù quáng. Vì thế, ta không thể
biết được một cách chính xác hậu quả của nó sẽ mang tính cách tích cực
hay tiêu cực, bởi vì biến cố đó che lấp phần lý trí trong não bộ của ta.
Vì lý do ấy, sinh lực của giận dữ gần như không bao giờ là một thứ sinh
lực có thể tin cậy được. Nó có thể xúi giục ta cư xử một cách nguy hại
và gây ra những đổ vỡ lớn lao. Khi giận dữ gia tăng và đạt đến mức tột
đỉnh sẽ làm mất lý trí và thúc ta hành động gây thiệt hai cho kẻ khác và
cho cả chính ta nữa.
May mắn thay, để xử lý những tình thế khó khăn, ta vẫn có thể phát
huy một thứ sinh lực khác cũng mãnh liệt như giận dữ, nhưng ta vẫn giữ
được sự chủ động. Chủ động được là nhờ vào lòng từ bi, lý trí và sự kiên
nhẫn. Đấy là những liều thuốc hoá giải rất hữu hiệu chống lại sự giận
dữ. Đáng buồn thay, người ta lại thường cho rằng lý trí và sự kiên nhẫn
là dấu hiệu của sự hèn yếu. Tôi hoàn toàn hiểu ngược hẳn lại, đấy là
những dấu hiệu của sức mạnh nội tâm đích thực. Từ bản chất, từ bi là
điều thiện, rất dịu dàng và hiền hoà, nhưng đồng thời cũng rất cường
lực. Từ bi tạo ra sức mạnh nội tâm và biến ta trở thành khoan dung hơn.
Những người đánh mất kiên nhẫn sẽ hoá ra lo âu và tính khí bất thường.
Vì thế, khi có một khó khăn hiện ra, hãy cố giữ thật khiêm tốn và cố
tìm một giải pháp thích nghi bằng một thái độ chân thật. Nhất định kẻ
khác cũng có thể tìm cách lợi dụng sự ngay thật của ta, và nếu như sự độ
lượng của ta chỉ làm mồi cho sự hung hãn bùng thêm một cách vô bổ, thì
lúc đó mới nên tìm cách giữ vững vị thế của ta. Nhưng hành vi giũ vững
đó phải đuợc thực thi với lòng từ bi, và nếu như cần phải bày tỏ quan
điểm và chọn một biện pháp mạnh, thì cũng có thể làm nhưng không được
phép giận dữ hay mang một chút ác ý nào.
Thật ra, phải hiểu rằng tuy kẻ thù của ta có vẻ như muốn kết đổ thừa
cho ta là người làm điều sai trái, nhưng sau cùng chính họ lại gánh lấy
tai hại do hậu quả phát sinh từ thái độ tàn phá của chính họ. Nếu muốn
khắc phục những phản ứng ích kỷ chống lại kẻ khác, phải luôn luôn nhớ
rằng ta đang cố gắng tu tập về lòng từ bi và đang tìm cách giúp đỡ kẻ
khác tránh khỏi khổ đau do những hành vi của họ. Những biện pháp mà ta
bình tĩnh chọn lựa nhất định sẽ đúng đắn, cường lực và hiệu quả. Nếu
giận dữ đứng ra chỉ huy sự trừng phạt, thì không mấy khi đưa đến thành
công.
Bạn và thù
Tôi xin phép trở lại chủ đề đã đề cập trước đây là muốn phát huy lòng
từ bi, lý trí và sự kiên nhẫn, không phải chỉ nghĩ đến giá trị của
những phẩm tính ấy là đủ. Nhưng phải đem những phẩm tính ấy ra để ứng
dụng mỗi khi gặp khó khăn. Nhưng những ai đã tạo ra các khó khăn đó ?
Nhất định không phải là bạn hữu của ta, nhưng chính là kẻ thù của ta.
Chính kẻ thù là những người tạo ra phiền toái cho ta. Vậy, nếu thực tâm
muốn học hỏi, ta phải xem kẻ thù của ta như những vị thầy tốt nhất ! Đối
với bất cứ ai muốn tìm cách vun xới lòng từ bi và tình thương, sự kiên
nhẫn là cách tập luyện thiết yếu nhất và kẻ thù là một yếu tố không thể
thiếu sót được. Hơn thế nữa, ta còn phải biết ơn kẻ thù của ta, bởi vì
chính họ đã giúp ta tìm thấy sự an bình trong tâm thức, họ tích cực hơn
bất cứ kẻ nào khác ! Thật vậy, có phải ta vẫn thường nhận thấy qua đời
sống cá nhân và trong tập thể xã hội, nhiều trường hợp kẻ thù đã trở
thành bạn hữu.
Nhất định, ai chẳng muốn được bạn bè săn đón. Nhưng tình bạn hữu có
phải đã phát sinh từ sự chống đối và giận dữ, từ ganh tị và tranh đua
quyết liệt hay không ? Tôi không tin một chút nào cả. Phương cách tạo ra
bạn bè, chính là tình thân ái ! Chỉ có tình thân ái mới tạo được những
người bạn trung tín và thành thật. Hãy thật sự chăm sóc cho kẻ khác,
quan tâm đến sự an vui của kẻ khác, giúp đõ họ, phục vụ họ, tạo thêm bạn
bè, hãy làm nở thêm những nụ cười. Những hành vi đó sẽ đem đến lợi lộc
gì cho ta ? Thật nhiều giúp đỡ khi ta cần đến. Ngược lại, nếu ta không
hề quan tâm đến hạnh phúc của kẻ khác, trong lâu dài chính ta sẽ là
người không tìm thấy hạnh phúc.
Trong một xã hội vật chất, tiền bạc và quyền thế có vẻ như đem đến
cho ta thật nhiều bạn hữu ; nhưng đó chỉ là bè bạn của tiền bạc và uy
thế mà thôi. Khi ta sa sút và quyền uy không còn nữa, thì dù có muốn dò
tìm tông tích của họ cũng không phải là chuyện dễ.
Khi mà mọi việc trong cuộc sống của ta đều suôn sẻ, ta có cảm giác có
thể tự xoay trở một mình, không cần đến bè bạn. Nhưng khi địa vị xã hội
và sự giàu sang sa sút, lúc đó ta mới nhận ra trước kia ta đã hiểu lầm.
Để phòng ngừa cảnh huống đó, và để tìm được những người bạn đích thực
có thể giúp đỡ trong khi cần đến, ta phải biết trau dồi lòng từ bi !
Nêu lên việc này biết đâu sẽ có người bật cười, nhưng tôi vẫn cứ nói
lên là tôi vẫn còn muốn có nhiều bạn hơn nữa. Tôi rất thích những nụ
cười. Vì thế, tôi tìm cách làm bạn với thật nhiều người, để đón nhận tật
nhiều nụ cười, nhất là những nụ nười đích thực. Có đủ mọi thứ cười, có
những nụ cười cay độc, giả tạo hay ngoại giao. Có những nụ cười thiếu
hẳn sự thành thực ; những nụ cười ấy thường gây ra ngờ vực, kể cả sự sợ
hãi, có đúng thế hay chăng ? Nhưng một nụ cười chân thật tỏa ra một cảm
giác mát mẻ, và theo tôi một nụ cười như thế mới chính thực là một nụ
cười của con người. Nếu chúng ta muốn được nhìn thấy những nụ cười như
thế, thì cũng nên hiểu rằng chính chúng ta là nguyên nhân tạo ra những
nụ cười ấy.
Vậy thì, ta phải làm bạn như thế nào ? Nhất định không phải bằng hận
thù và chống đối. Không thể nào tạo ra những mối giây thân hữu khi đánh
đập kẻ khác hay tuyên chiến với họ. Một tình bạn đích thực phải xây dựng
trên sự lương thiện và thành thật, nói một cách khác là bằng một tâm
thức cởi mở và một tấm lòng ấm áp. Theo ý tôi, cách giao tiếp với kẻ
khác trong cuộc sống thường nhật cũng đủ để chứng minh điều ấy.
Chiến thắng kẻ thù ẩn nấp trong ta
Giận dữ và hận thù là những kẻ thù đích thực. Chính đó mới thật là
những kẻ thù mà ta cần phải chiến thắng và khắc phục, không phải là
những kẻ thù bất chợt do thời cơ xui khiến. Khi nào tâm thức chưa được
luyện tập đầy đủ để khắc phục sức mạnh tiêu cực của giận dữ và hận thù,
thì những xúc cảm ấy vẫn còn tiếp tục khuấy động và hủy diệt mọi nổ lực
tìm kiếm sự an bình cho nội tâm.
Muốn loại trừ tiềm năng tàn phá của giận dữ và hận thù, ta cần hiểu
rằng những xúc cảm đó bắt nguồn từ sự kiện ta chỉ biết quan tâm đến lợi
ích và an vui của cá nhân ta và quên đi hạnh phúc của kẻ khác. Thái độ
chỉ biết đến mình tiềm ẩn trong mỗi con người, thái độ ấy chẳng những
dung dưõng sự giận dữ mà còn làm phát sinh mọi thể dạng tâm thức tệ hại
khác nữa. Đấy là sự cảm nhận lừa phỉnh không cho phép ta nhìn thấy bản
chất đích thực của mọi vật thể, và từ cách diễn đạt sai lầm này sẽ phát
sinh ra mọi thứ khổ đau và bất toại nguyện mà ta phải gánh chịu. Vì thế,
người tu tập từ bi và tình thương yêu phải chận đứng những tác hại của
kẻ thù nội tâm, không cho phép những kẻ thù ấy tự động đưa đến những hậu
quả đổ vỡ không hàn gắn được.
Muốn lột trần quá trình tàn phá trên đây một cách minh bạch, ta phải
học tập để hiểu thấu bản chất của tâm thức, bởi vì như tôi thường nói,
tâm thức là một hiện tượng vô cùng phức tạp. Triết học Phật giáo nêu lên
nhiều loại tâm thức hay là tri thức khác nhau, và đồng thời cũng đưa ra
các phương pháp thiền định giúp ta quen thuộc với tính cách biến động
không ngừng của những thể dạng tâm thần.
Theo các khảo cứu khoa học, vật chất được cấu hợp từ những hạt cơ
bản. Một số thành phần phân tử hoá học cũng như một số cấu trúc nguyên
tử hàm chứa một giá trị thực tiển nào đó thường được các khảo cứu gia
quan tâm nhiều hơn, trong khi những thành phần và cấu trúc nào không hàm
chứa các đặc tính hữu ích thì không được chú ý đến, hoặc bị đặt qua một
bên. Phân loại bằng cách chọn lọc như thế đã đưa đến những kết quả thật
ngoạn mục.
Nếu người ta biết dồn thật nhiều nổ lực như trên đây để nghiên cứu về
tâm thức, về thế giới nhận biết và các hiện tượng tâm thần, thì nhtấ
định người ta cũng sẽ khám phá ra vô số những thể dạng khác biệt nhau
tùy theo cách nhận biết, đối tượng nhận biết và sức mạnh mà tâm thức sử
dụng để nhận biết. Có một số thể dạng tâm thức rất hữu ích và tốt đẹp,
ta nên xác định chúng một cách chính xác và phát huy tiềm năng của
chúng. Hãy bắt chước phương pháp của các nhà khoa học, khi ta phân tích
và thấy rằng một số thể dạng nào đó của tâm thức không mang tính cách
tích cực, bởi vì chúng tạo ra khổ đau và chướng ngại, ta nên tìm cách
loại trừ chúng ngay. Đấy là một trong những phương pháp quan trọng nhất :
dù sao đi nữa, điều ấy cũng là mối ưu tư hàng đầu của người tu tập Phật
giáo. Việc đó cũng tương tợ như mổ xẻ bộ nảo để thực hiện các thí
nghiệm trên những tế bào tí teo, tìm hiểu xem tế bào nào làm phát sinh
ra hân hoan, và tế bào nào tạo ra đau khổ. Cho đến khi nào những kẻ thù
như vừa kể trên đây còn ẩn nấp trong ta, thì ta vẫn còn gặp nguy cơ vấp
phải những hiểm nguy to lớn.
Trước khi bước vào kỹ thuật tu tập tâm thức của Phật giáo, cần phải
hiểu rõ và ước tính cẩn thận những khó khăn có thể gặp phải trong các
cách luyện tập ấy. Kinh sách Phật giáo có nói đến tám mươi bốn ngàn loại
tư duy độc hại, và đồng thời cũng có tám mươi bốn ngàn phương thuốc để
hoá giải chúng. Do đó, xin chớ chờ đợi một giải pháp thần diệu hiện ra
như một thứ phù phép giải thoát ta ra khỏi tất cả những sức mạnh tiêu
cực. Ta phải thực hành thật nhiều phương pháp khác nhau trong một thời
gian lâu dài mới có thể nhìn thấy được những kết quả cụ thể. Cần nhất là
phải có sức mạnh của quyết tâm và thật nhiều kiên nhẫn. Trong những
bước đầu trên con đường Đạo Pháp, xin quý vị chớ nên mong đợi đạt ngay
được Giác ngộ sau một tuần lễ tu tập. Điều đó quả thật không thực tế một
chút nào cả.
Một vị thánh vĩ đại của Phật giáo là Long Thọ đã viết nhiều trang
luận giải trình bày sự cần thiết của kiên nhẫn trong quá trình tu tập
tinh thần. Ông khẳng định rằng – nhờ vào sự tu tập và kỷ cương tâm thức,
nhờ vào sự quán thấy sâu xa và những ứng dụng tinh thông – khi nào ta
đã tạo được cho ta một thể dạng thăng bằng và tự tin, thiết lập bằng một
phương pháp tu tập đích thực và rốt ráo, thì lúc đó thời gian cần thiết
để đạt được Giác ngộ không còn là một điều quan trọng nữa. Tuy thế,
khác với trường hợp của Long Thọ, thời gian đối với chúng ta vẫn còn là
một yếu tố quan trọng. Khi nào ta vẫn còn phải gánh chịu những biến cố
đau buồn không thể kham nổi, dù chỉ là tạm thời đi nữa, thì lúc đó ta
vẫn không có đủ kiên nhẫn và phải tìm một lối thoát nào nhanh chóng
nhất.
Vì chưng từ bi và tình thương yêu chỉ có thể trả với một giá rất đắt
bằng những cố gắng thật ý thức và liên tục, cho nên cần phải xác định rõ
ràng những điều kiện nào có thể giúp phát lộ những phẩm tính của lòng
ta và những cảnh huống bất thuận lợi nào sẽ ngăn cản không cho phép ta
vun xới những thể dạng tích cực. Muốn thực hiện mục tiêu đó, ta phải
sống với một tâm thức bén nhậy và tĩnh giác. Ta phải tự chủ và cảnh giác
để mỗi khi có một biến cố xảy ra, ta có thể ý thức được ngay đấy là một
biến cố thuận lợi hay bất thuận lợi cho sự phát triển từ bi và tình yêu
thương. Tu tập được như thế, ta sẽ dần dần giới hạn ảnh hưởng của những
sức mạnh tiêu cực và đồng thời làm gia tăng những điều kiện thích nghi
để phát huy hai phẩm tính là từ bi và tình thương yêu.
Như tôi vừa trình bày trên đây, bất cứ khổ đau nào hay hạnh phúc nào
cũng đều thuộc vào hai lãnh vực, hoặc là thân xác hoặc là tinh thần. Khi
đau đớn phát sinh trên thân xác, một tâm thức tích cực có thể làm bớt
đi sự đau đớn đó. Thực vậy, một tâm thức bình tĩnh có thế hoá giải được
sự đau đớn. Chấp nhận và quyết tâm chịu đựng sự đau đớn cũng cho thấy
những hiệu quả lớn lao. Ngược lại, đối với trường hợp khổ đau có tính
cách tinh thần, thì dù có cố gắng làm cho khoẻ mạnh thêm trên phương
diện thân xác thì cũng không vì thế mà có thể làm giảm bớt được khổ đau
tinh thần. Nhất định ta có thể tìm cách làm quên bớt những khổ đau tinh
thần bằng cách ru ngủ giác quan bằng những thích thú, nhưng tình trạng
đó không kéo dài và khổ đau còn có thể trở nên trầm trọng hơn gấp bội.
Vì thế, phải cần luyện tập tinh thần thường xuyên, nhưng không cần phải
tu tập những gì liên quan đến cái chết hay là con đường đưa đến Giác
ngộ. Dù sao, nếu những tầm nhìn thật xa không đủ sức thu hút ta, thì ta
cũng nên chăm lo cho tâm thức, hơn là chỉ biết chú ý đến đồng tiền trong
túi.
Thật rõ ràng, Phật giáo không phải chỉ giúp làm cho nhẹ bớt đớn đau,
mà còn nhắm vào sự giải thoát tất cả chúng sinh khỏi vòng đau khổ. Tuy
nhiên, nếu như việc chịu đựng đau đớn cho chính mình đã là việc khó, thì
làm thế nào để đủ sức gánh chịu khổ đau cho tất cả chúng sinh ? Trong
tập sách Hướng dẫn sự sinh hoạt của một vị Bồ-tát, một vị thầy người Ấn
thuộc thế kỷ thứ VIII là Tịch Thiên đã giải thích những khác biệt trên
phương diện hiện tượng học giữa những đớn đau mà ta cảm nhận được khi
nhận lảnh tất cả khổ đau của kẻ khác và những khổ đau trực tiếp của
chính ta. Loại khổ đau thứ nhất hàm chứa tính cách bất an vì phải chia
xẻ khổ đau của kẻ khác, nhưng đồng thời ta vẫn giữ được một thể dạng
thăng bằng nào đó trong tâm thức bằng sự tự nguyện chấp nhận. Hành vi
chủ ý chấp nhận khổ đau của kẻ khác hàm chứa một sức mạnh và sự tự tin,
trong khi đó đối với loại khổ đau thứ hai, sự cảm nhận đớn đau và khổ
nhọc vượt ra ngoài ý muốn của ta. Vì chưng những khổ đau thuộc loại ấy
thoát ra khỏi sự kiểm soát của ta, nên ta sẽ cảm thấy yếu đuối và kinh
hoàng.
Những lời giảng huấn của Phật giáo về lòng nhân ái và từ bi thường sử
dụng đến những câu châm ngôn như sau : « Đừng nghĩ đến sự an vui của
chính mình, hãy đặt sự an vui của kẻ khác lên trên hết ». Những câu châm
ngôn như thế có vẻ làm cho người nghe khó hiểu, nhưng thật ra phải đặt
những câu ấy vào đúng phối cảnh của chúng, tức là tình trạng ta đang
phải tu tập để tự nguyện nhận chịu khổ sở và đớn đau cho kẻ khác.
Thực ra, cũng phải đủ sức để yêu mến chính mình trước khi chăm lo cho
kẻ khác. Yêu thương chính mình không phải là một thứ xúc cảm giống như
một món nợ cá nhân đối với chính mình. Đúng hơn, yêu thương có nghĩa là
từ bản chất, tất cả chúng ta đều mong muốn được hạnh phúc và tránh khỏi
khổ đau. Sau khi chấp nhận sự yêu mến chính mình, ta sẽ có thể trải rộng
sự yêu mến đó đến tất cả chúng sinh có giác cảm. Vì thế, khi thấy những
lời giảng huấn khuyên ta không nên tìm kiếm an vui cho riêng mình mà
hãy dành ưu tiên cho kẻ khác, thì nên hiểu đấy là nguyên tắc quy định
trong cách tu tập về lòng từ bi lý tưởng. Nhất là ta không nên chọn lấy
sự vui sướng khi chỉ biết có ta, để đánh mất đi những gì tốt đẹp trong
những hành vi hướng về kẻ khác.
Ta cũng nên tập đánh giá cao kẻ khác bằng cách nhìn thấy tầm quan
trọng nơi tình thương yêu của họ đã giữ một vai trò quan trọng giúp ta
tạo được hạnh phúc, hân hoan và góp phần đem đến sự thành đạt của ta.
Điều ấy phải là mối quan tâm hàng đầu của ta. Tiếp theo đó, ta phải phân
tích để thấy rằng tất cả khó khăn và khổ đau đều xuất phát từ thái độ
ích kỷ, mặc kệ kẻ khác, chỉ cần biết đến sự an vui của riêng mình, và
đồng thời cũng phải nhận thấy là tất cả niềm hân hoan và sự tự tin của
ta đều xuất phát từ những tư duy và xúc cảm khi hướng về kẻ khác. Nếu
đem ra so sánh hai thái độ trên đây – chỉ biết nghĩ đến ta, hoặc lo âu
cho kẻ khác – thì ta sẽ nhận thấy hạnh phúc của kẻ khác quan hệ vô cùng.
Thái độ bình đẳng không phân biệt
Từ bi đích thực mang tính cách toàn diện và vô tư, vì thế trước hết
phải tu tập thế nào để giữ một thái độ công bằng như nhau và không phân
biệt giữa tất cả chúng sinh. Theo quan niệm Phật giáo, đối với một người
nào đó chẳng hạn mà ta xem là bạn hay là một người thân thuôc trong gia
đình, nhưng biết đâu trong kiếp trước họ đã từng là một kẻ thù tệ hại
nhất của ta. Ta cũng có thể áp dụng lối suy luận trên đây đối với một kẻ
thù : nếu họ có làm điều sai trái và thiệt hại cho ta trong kiếp sống
này, nhưng biết đâu trong những kiếp sống trước họ từng là một người bạn
tốt nhất của ta, kể cả việc có thể họ đã từng là mẹ của ta. Khi biết
suy nghĩ về tính chất bất định trong sự liên hệ giữa kẻ khác và ta và sự
kiện mỗi chúng sinh đều hàm chứa khả năng tùy theo lúc có thể là một
người bạn tốt hay là một kẻ thù, ta sẽ hiều rằng cần phải cố gắng để
phát huy trong tâm thức một thái độ không thiên vị hay « bình đẳng không
phân biệt ».
Sự tu tập ấy đòi hỏi phải có một sự siêu thoát nào đó, và ta cũng cần
phải tìm hiểu ý nghĩa thật sự của chữ ấy là gì. Đôi khi nghe nói đến «
siêu thoát » trong Phật giáo, một số người lại hiểu lầm đấy là một
truyền thống tôn thờ sự dửng dưng. Hoàn toàn không phải như thế. Đi tìm «
siêu thoát » tức là loại bỏ những xúc cảm dựa vào sự cân nhắc hời hợt
về những khoảng cách xa hay gần phân chia giữa ta và kẻ khác. Thực hiện
được như thế ta mới có thể phát huy lòng từ bi đích thực mang tính cách
toàn diện. « Siêu thoát » không có nghĩa là « thờ ơ » với thế giới này
và sự sống – ngược lại thì đúng hơn. Những kinh nghiêm sâu xa về sự siêu
thoát sẽ tạo ra một mảnh đất thuận lợi để xây dựng lòng từ bi đích thực
hướng về tất cả chúng sinh. (Con Đường Đưa Đến Hạnh Phúc)