Tưởng đến me liền chảy nước miếng, tuy chưa được nếm vào miệng nuốt vào
bao tử, đã làm cho người thích thú, chỉ hận chưa được nghe tiếng ho hen
thôi. Sư bèn đến Bảo Phong nương với Trạm Đường, rồi làm khách thưa hỏi
Thiền sư Tử Tâm ở Hoàng Long, sau mới đến Viên Ngộ.
Một hôm, Sư vào thất, Viên Ngộ hỏi: - “Kiến kiến chi thời, kiến phi
thị kiến, kiến du ly kiến, kiến bất năng cập”, Ngộ đưa nắm tay lên hỏi: -
Thấy chăng?
Sư thưa: - Thấy.
Viên Ngộ bảo: - Trên đầu lại để đầu.
Sư nghe bỗng nhiên khế chứng.
Viên Ngộ quở: - Thấy cái gì?
Sư thưa: - Tre dầy chẳng ngại nước chảy qua.
Viên Ngộ thừa nhận, sai làm Tri tạng.
Có người hỏi Viên Ngộ: - Tạng chủ Long mềm mại dường ấy đâu hay vì người?
Viên Ngộ đáp: - Con cọp ngủ.
Sau
Sư trở về quê hương trụ tại chùa Khai Thánh. Khoảng niên hiệu Kiến Viêm
(1127-1131) có loạn, Sư bèn cất am dưới chót Đồng Phong. Quận thú Lý
Công Quang mời Sư trụ chùa Chương Giáo. Sau cùng, Sư đến Hổ Khưu, nơi
đây chúng rất thịnh hành, đạo được hưng hóa.
Sư dạy chúng: Mở
toang cửa nẻo muôn dặm chẳng dính mảnh mây, mặt trời sáng lên không, bốn
phương gió mát đầy tòa, mặt hồ ánh sáng thênh thang, đồng nội sắc trong
lặng sáng, vạn tượng sum la đồng bày hải ấn. Nếu được nơi nơi diệu dụng
vật vật chân cơ, tâm cảnh nhất như mảy trần chẳng lập, chính thế ấy là
muôn cơ thôi nghỉ, ngàn thánh chẳng mang, ngồi đoạn đảnh Tỳ-lô, chẳng
trình Thích-ca Văn, xem thường Thanh văn, ngạo nghễ Bồ-tát, Đức Sơn Lâm
Tế trông thấy mắt trợn miệng lẩm bẩm, có gậy có hét một điểm cũng dùng
chẵng được. Hãy nói, khi chợt gặp gười trong kia lại làm sao thoại hội?
Nghiêng che gặp nhau vốn cố cựu, ngại gì đến uống trà Triệu Châu.
Sư
dạy: Trước mắt không pháp, vạn tượng rậm rạp, ý tại trước mắt, chợt
hiện khó biện, chẳng phải pháp trước mắt, chạm đến gặp y chẳng phải chỗ
mắt tai đến, chẳng lìa thấy nghe hiểu biết. Tuy nhiên như thế, cũng phải
là kia nhằm trên cây chốt cửa mới được. Vì thế nói, lưới bủa chẳng dừng
trụ, kêu gọi chẳng xoay đầu, Phật Tổ chẳng an bày, đến nay không nơi
chốn. Như thế thì chẳng nhọc liễm niệm lầu các cửa mở, tấc bước chẳng
dời trăm thành đều đến. Sư cầm gậy vạch một lằn nói: “Rắn chết trên
đường chớ đập chết, giỏ tre không đáy bỏ mang về.”
Sư dạy: Sáng
chẳng soi cảnh cảnh cũng chẳng còn, sáng cảnh đều mất lại là vật gì?
Trên đầu trăm cỏ dẹp hết binh đao thì gác lại, chợt như voi lớn Gia Châu
cỡi ngược ngựa sắt Thiểm Phủ, nắm núi Tu-di một vả nát nghiến, trong
nước Tân La cỡi ngựa, Nam Thiệm Bộ Châu nói thiền, lại làm sao? “Trên
núi Ngũ Đài cơm mây nấu, trước thềm điện Phật chó đái trời, trên đầu cột
phướn nung chùy quả, ba con khỉ vượn đêm vãi tiền.”
Sư dạy: Phàm
có bày đỡ trọn rơi thời nay, chẳng bày chẳng đỡ rơi hầm rớt hố, dù cho
gió thổi chẳng vào, nước rưới chẳng dính, kiểm điểm về sau tự cứu chẳng
xong. Há chẳng thấy, dù giống bóng trăng đầm lạnh, tiếng chuông đêm
vắng, chạm sóng to mà không tan, tùy dóng đánh vẫn không thiếu, còn là
việc đầu bờ sanh tử. Sư cầm cây gậy vạch một vạch nói: Chặt sắn bìm
nhiều năm của cổ nhơn, đá điểm đầu bất chợt vỗ tay cười. Hãy nói cười
cái gì? Sau ót thấy má chớ cùng qua lại.
Khoảng niên hiệu Thiệu Hưng, Sư có chút bệnh rồi tịch. Tháp toàn thân ở góc Tây Nam chùa.