Nhà sư vui
 mừng rảo bước ra về, không ngờ nơi ông tu hành đang có sự viếng thăm 
của một kẻ trộm. Tội nghiệp cho tên trộm, hắn không tìm thấy được vật gì
 quí giá trong túp lều tranh đành thất thểu bước ra thì chạm mặt nhà sư.
 Thật ra thì nhà sư đã về đến nhà từ lâu nhưng ông ngại sẽ làm cho tên 
trộm giật mình, vì vậy ông đã nấn ná phía bên ngoài đợi cho tên trộm 
bước ra, tay ông cầm sẵn chiếc cà sa bạc màu mà ông đã mặc nhiều năm 
trên người. Tên trộm hơi bỡ ngỡ chưa biết phải làm sao thì nhà sư đã lên
 tiếng:
- Con lặn 
lội đường xa đến thăm, ta không nỡ để con ra về tay không. Trời về khuya
 gió lạnh, con hãy cầm đỡ tấm cà sa này xem đó như một món quà nhỏ của 
ta tặng.
 
Nói xong 
ông khoác chiếc áo cũ lên người tên trộm, con người đáng thương cảm thấy
 ngỡ ngàng, hắn lầm lũi ra đi mà không nói được một lời.
Nhìn theo kẻ trộm dần dần khuất vào bóng đêm, nhà sư thở dài lẩm bẩm:
- Hỡi kẻ đáng thương, ta ước gì có thể tặng cho con một vầng trăng sáng vằng vặc của đêm nay.
Nhà
 sư không tặng được vầng trăng cho tên trộm cho nên ông cảm thấy xốn 
xang. Trong đêm sáng trăng thanh tịnh này, không có gì đẹp và thanh 
khiết cho bằng ánh trăng. Khi ông muốn mang ánh trăng tặng cho người 
khác, ngoài cái đẹp của sự vật, còn có một ý nghĩa trong sạch và thanh 
thoát cho tâm hồn. Từ ngàn xưa, những vị Đại Đức của Thiền Tông thường 
dùng ánh trăng để tượng trưng cho tự tính của con người, lý do là vầng 
trăng đêm mang ánh sáng dịu dàng, bình đẳng chiếu sáng khắp nơi. Làm thế
 nào để tìm cho được một ánh trăng sáng trong tâm hồn thường là mục tiêu
 của người theo đạo Thiền. Dưới mắt của nhà sư, kẻ trộm kia bị dục vọng 
làm mờ đôi mắt, cũng như vầng trăng sáng bị mây đen che phủ. Một con 
người không tìm được hướng đi, không tự chiếu sáng lấy mình, chính là 
một điều vô cùng bất hạnh.
Sáng hôm 
sau, khi ánh bình minh đánh thức ông dậy, nhà sư mở mắt ra thì thấy tấm 
áo cà sa đã được xếp ngay ngắn đặt bên cạnh từ lúc nào. Nhà sư cảm thấy 
vui mừng hơn bao giờ hết, ông lẩm bẩm nói rằng:
- Cuối cùng thì ta cũng tặng được cho con người đáng thương kia một vầng trăng sáng rồi.

 
Chắc là bạn không thể ngờ là vầng trăng 
cũng có thể trở thành một món quà tặng. Điều này kể ra cũng lý thú lắm 
nhỉ. Trong cuộc sống thực tế của chúng ta, có những sự vật vô hình không
 thể nào làm quà tặng được. Dĩ nhiên là bạn không thể nào nói với người 
ăn mày ngoài đường như thế này: "Tôi tặng cho ông một chút từ bi". Chúng
 ta chỉ có thể dùng số lượng tiền bạc hoặc hiện vật nhiều hay ít để đo 
lường tấm lòng từ bi đó. Cũng như bạn không thể nào nói với người yêu 
của bạn rằng: "Anh tặng cho em 100 cái tình yêu", bạn chỉ có thể tặng 
cho nàng 100 đóa hoa hồng. Cũng từ số lượng hoa hồng, người ta có thể đo
 lường được mức độ say đắm và tấm lòng trung kiên với người yêu. Tuy 
rằng lối tính toán và đo lường này không phải lúc nào cũng chính xác. 
Đôi khi người tặng hoa hồng có thể lại là người thật lòng thương yêu và 
tình yêu của họ lại còn nồng nàn và chín chắn hơn cả những người tặng 
hột xoàn cho người đẹp nữa, bạn ạ.
Thế nhưng trên cõi đời này, có nhiều sự việc như tình bạn, tình yêu,
 chính nghĩa, hạnh phúc, bình an, trí tuệ đều là những thứ vô giá mà 
chúng ta không thể nào dùng những sự vật hữu hình để đo lường. Đây cũng 
là một điều làm cho giữa con người và con người có những sự hiểu lầm 
nhau trên giá trị của những sự việc vô hình trừu tượng. Con người thường
 dùng những vật hữu hình để diễn đạt những tín hiệu của tâm linh, như là
 tình yêu thương, lòng hiếu thảo, sự biết ơn chẳng hạn. Thế nhưng trong 
quá trình để đo lường những sự việc vô hình đó chắc chắn thế nào cũng có
 những chênh lệch, mà sự chênh lệch này thường khiến cho bạn bè hiểu 
lầm, tình ruột thịt trở thành thù nghịch, kẻ yêu nhau trở thành nghi kỵ,
 thù ghét nhau.
Những tình cảm vô hình giá trị đó có một sự tiếp cận với triết lý của Phật Học: "chỉ có thể lãnh hội mà không thể nào truyền đạt".
 Thí dụ như một cái siết tay thân mật giữa đôi bạn thân, một nụ hôn nồng
 cháy của đôi tình nhân, một nụ cười âu yếm giữa vợ và chồng, một tiếng 
kêu mẹ thân yêu thắm thiết, hoặc một lời cầu chúc đẹp đều là những món 
quà tặng cho nhau quí giá nhất mà không có một khối lượng tiền của nào 
có thể mua được.
Trên thế gian không có một phương thức cố định nào có thể huấn luyện
 cho con người biểu lộ những tình cảm vô hình đó. Thế nhưng theo tôi 
nghĩ, phương pháp duy nhất để huấn luyện cho bản ngã có thể diễn đạt 
được những tình cảm này là chúng ta hãy quay lại phán xét về chính bản 
thân, tìm nhiều phương thức để làm giàu nhân cách, khiến cho bản thân 
chúng ta trở thành thuần thiện, nhiệt tình, vô tư thì tự nhiên những 
tình cảm vô hình bạn dành cho kẻ khác sẽ biểu hiện một cách rõ ràng trên
 sắc diện.
Khi sự chân thành của bạn có thể lộ ra trên sắc diện thì lúc đó bạn có 
thể tặng một vầng trăng cho kẻ khác mà chắc chắn đối phương sẽ dễ dàng 
nhận được món quà quí giá này.
Nếu lúc 
nào chúng ta cũng giữ được tấm lòng trong sạch, tính tình khoan dung, tự
 tâm yên tĩnh, lục căn thanh tịnh thì đừng nói một ánh trăng mà nhiều 
ánh trăng cũng có thể làm quà tặng cho kẻ khác được. ánh trăng không chỉ
 đơn thuần dùng để tặng cho nhau mà còn có thể chiếu sáng lẫn nhau, soi 
đường cho nhau, hồi hướng cho nhau.
Vì vậy khi nhà sư nói với tên trộm: "Ước gì ta có thể tặng cho con một vầng trăng sáng",
 đó chính là tiếng nói của một tấm lòng từ bi, trong sạch. Tấm lòng từ 
bi đã khiến cho kẻ trộm cảm nhận được và xấu hổ vì hành động bất lương. 
Hắn đã ngộ đạo và quay lại con đường phúc thiện tràn đầy ánh sáng.
(st)