Tác
động của Hallyu ở Việt Nam diễn ra trên nhiều khía cạnh của văn hóa,
trước hết là âm nhạc, phim ảnh. Các ngôi sao Hàn Quốc trở thành những
thần tượng của công chúng trẻ âm nhạc Việt Nam. Khán giả ca nhạc bộc lộ
cảm xúc trước những thần tượng Hàn Quốc đến điên cuồng, sảng loạn, với
những hành động cử chỉ như khóc lóc đến mức ngất xỉu, hôn ghế ngồi của
thần tượng… Còn phim ảnh thì cũng trở thành sốt. Hầu hết kênh truyền
hình ở Việt Nam đều chiếu phim Hàn Quốc.
Nhiều nhà nghiên cứu tại Hội thảo khoa học quốc tế “Tìm hiểu làn sóng văn hóa Hàn Quốc ở châu Á”
diễn ra tại Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn TPHCM tháng
6/2012 vừa qua đều thống nhất mốc khởi đầu Hallyu tại Việt Nam là năm
1998, khi Đài Truyền hình TPHCM chiếu bộ phim nhiều tập “Anh em nhà bác sĩ”.
Hallyu
– làn sóng văn hóa Hàn – có tác động đến lãnh vực tôn giáo, cụ thể là
nó có làm cải đạo những nơi nó truyền lan đến, cụ thể là ở Việt Nam,
theo xu thế cải đạo từ Phật giáo, tôn giáo truyền thống, sang tôn giáo
mới du nhập Hàn Quốc trong thế kỷ XX là Tin Lành hay không, đó là vấn đề
bài viết này muốn đặt ra.
Hallyu
– làn sóng văn hóa Hàn – là một hoạt động văn hóa, một tiến trình văn
hóa. Tôn giáo thuộc về lãnh vực văn hóa. Do vậy, tác động của Hallya đối
với tôn giáo, mà cụ thể ở đây là việc cải đạo từ Phật giáo sang Tin
Lành theo hình mẫu Hàn Quốc, là điều đương nhiên, ắt phải.
Hơn
nữa, Hallyu vẫn được coi là một thứ “quyền lực mềm”. Mà nói quyền lực
tức là có hàm ý buộc đối tượng chịu tác động phải tuân theo. Hallyu còn
được các nhà nghiên cứu khoa học xã hội đánh giá bằng những cụm từ như “chủ nghĩa dân tộc văn hóa” (Lee Dong Yeon), “Chủ nghĩa quốc gia” mềm (Wong Jon Jin).
Từ
một nước 90% theo Phật giáo chuyển sang một quốc gia Phật giáo là tôn
giáo thiểu số, Cơ đốc giáo hóa đang là một xu hướng của xã hội Hàn Quốc.
Xu hướng đó thể hiện trên nhiều mặt hoạt động, trong đó, có các lãnh
vực của văn hóa. Hallyu tràn ra nước ngoài ắt phải mang trong nó điều
đó.
Tác
động của nó có thể là trực tiếp, có thể là gián tiếp. Trực tiếp là
chính những người hoạt động văn hóa Hàn Quốc đến Việt Nam thúc đẩy hoạt
động cải đạo. Vì bối cảnh tôn giáo của Việt Nam cũng giống như Hàn Quốc,
nên đây tất yếu được coi là một thuận lợi.
Người
Hàn Quốc đã cải đạo từ Phật giáo sang Tin Lành đến Việt Nam không sinh
hoạt ở những thánh đường riêng, mà họ lồng ghép sinh hoạt tôn giáo vào
những thánh đường người Việt. Đây là một lợi thế của Hallyu. Các nhà thờ
Tin Lành hỗn hợp Hàn Việt thường xuyên tổ chức truyền giảng cải đạo.
Hallyu tôn giáo có được môi trường để tác động mạnh mẽ. Chỉ cần những
ngôi sao ca nhạc, điện ảnh đi nhà thờ hỗn hợp để làm lễ hàng tuần, tác
động của họ đối với những fan hâm hộ trẻ của Hallyu là vô cùng lớn.
Tôi không có dịp để dự những buổi truyền giảng như vậy, nhưng có nghe
nói về những trường hợp bạn trẻ cải đạo rồi tiếp tục sinh hoạt ở nhà thờ
hỗn hợp Hàn – Việt (Quận 10, góc 3 tháng 2 – Ngô Quyền). Còn phía Tin
Lành, việc sử dụng người của công chúng là con chiên để vận động cải đạo
là một sở trường. Ở đây có chung công thức: họ nói từ những điều chưa
có được hay không hay khi theo Phật giáo cho đến những điều được coi là
tuyệt diệu khi cải đạo (điển hình là trường hợp Huệ Nhật, được viết
thành sách).
Vì
vậy, về mặt tác động trực tiếp, thì hoạt động cải đạo (mà họ gọi là rao
giảng tin mừng), một trong những hoạt động chính của các cơ sở tôn giáo
hỗn hợp Hàn Việt đương nhiên không thể bỏ qua cơ hội mà Hallyu mang
đến. Sự ưu việt của văn hóa Hàn luôn được nhấn mạnh là sự chuyển đổi từ
truyền thống, được coi là lạc hậu, sang hiện đại, được coi là tiên tiến.
Quá trình đó gồm có chuyển đổi tôn giáo từ Phật giáo sang Cơ đốc giáo.
Chúng
ta để ý, nếu du lịch Nhật Bản thường xuyên giới thiệu những ngôi chùa
với niềm tự hào, thì điều đó rất hiếm thấy ở du lịch Hàn Quốc. Thế
nhưng, phim Hàn Quốc thì tràn đầy hình ảnh lễ cưới ở nhà thờ, hình ảnh
các buổi cầu nguyện dưới thánh giá.
Ví
dụ cụ thể nói trên là một trường hợp ảnh hưởng gián tiếp. Người nghiện
phim ảnh Hàn Quốc hiện nay, là người chịu tác động của Hallyu, tự mình
Hàn Quốc hóa trong sinh hoạt. Điều đó, có nghĩa là giải truyền thống văn
hóa dân tộc, phi dân tộc hóa. Họ ăn mặc, trang điểm, để tóc, chọn giầy
theo kiểu Hàn Quốc, ăn kim chi, ăn lẩu Hàn, mì Hàn… Cái gì là Hàn thì họ
đều vơ vào, còn việc xem phim Hàn, nghe nhạc Hàn thì là điều bình
thường của mọi người, tôn giáo Hàn bây giờ là Cơ đốc giáo.
Hallyu
không diễn ra tự phát mà có sự thúc đẩy. Có nhiều người Hàn mở quán ăn
để rao giảng Tin Lành. Đến ăn thì được chủ quán tiếp chuyện, mời đi nhà
thờ Hàn Quốc. Cũng có rất nhiều người Hàn là tín đồ nhiệt thành truyền
đạo làm các công việc liên hệ với văn hóa tại Việt Nam, nhiều nhất là
dạy học. Số những người này rất tích cực đóng góp cho Hallyu. Chắc chắn
họ ý thức rằng Tin Lành theo kiểu Hàn Quốc là một dạng quyền lực mềm có
sức mạnh hết sức lớn lao.
Hallyu
trong tôn giáo là điều mà từ trước đến nay dường như ít được đề cập
đến. Mong rằng bài viết này giúp cho người Phật tử Việt Nam thấy được
một khía cạnh mới của áp lực cải đạo tín đồ Phật giáo. Áp lực cải đạo
đến từ Hàn Quốc nặng nề không kém gì phương Tây trong bối cảnh làn sóng
văn hóa Hàn đang tạo ra những tác động bất ngờ, không tưởng tượng nổi ở
Việt Nam, có khi làm bức xúc dư luận xã hội.
Các
bậc phụ huynh Phật tử nên quan tâm đến sinh hoạt của con em mình nhiều
hơn, nếu con em mình đã có những biểu hiện chịu những tác động của
Hallyu. Tác động đó có thể sẽ đi đến việc cải đạo ở một nhà thờ Tin Lành
Hàn Việt, thậm chí, vận động bạn bè cùng cải đạo theo kiểu Hàn Quốc.
Kết
luận bài viết này, chúng tôi xin chân thành cảm ơn thầy Thích Văn Phong
đã cung cấp cho chúng tôi nhiều thông tin về hoạt động vận động cải đạo
cũa những người Hàn Quốc đang cư trú, làm việc tại Việt Nam.
Có
nhà nghiên cứu cho rằng Hallyu đã đạt đỉnh sóng và đang qua đỉnh sóng.
Có điều, theo chúng tôi, dù Hallyu có giảm đi nữa, thì hoạt động cải đạo
tín đồ Phật giáo Việt Nam đến từ Hàn Quốc vẫn sẽ chỉ giảm tác động gián
tiếp, còn tác động trực tiếp thì sẽ không giảm bao nhiêu, dù ảnh hưởng
của Hallyu nói chung có giảm đến mức nào đi nữa. Tiến trình cải đạo theo
như lời thầy Thích Văn Phong đã được, có thể nói là “xuất khẩu” sang
Việt Nam. Người Hàn Quốc nhiệt thành đi cải đạo còn hơn cả người Mỹ.
Những người Hàn Quốc sang Việt Nam cải đạo sẽ không buông xuôi một khi
Hallyu qua thời đỉnh sóng, chuồi xuống thành “sóng xuôi” (1) đi nữa.
Chúng
ta hãy nhớ một điều, nếu một người Hàn Quốc nào đó khẳng định Hàn Quốc
hiện đại hóa nhờ Tin Lành hóa, thì câu hỏi của chúng ta là tại sao Nhật
Bản, Đài Loan… không có cải đạo như ở Hàn Quốc mà vẫn hiện đại hóa thành
công?
(1) Xem thêm “Văn hóa Hàn – “quyền lực mềm” và mối lo”, Cát Khuê ghi từ Hội thảo “Làn sóng Văn hóa Hàn Quốc ở châu Á” tại trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn TPHCM, báo Tuổi Trẻ thứ tư ngày 27 tháng 6 năm 2012.