Lòng tham có tham danh, tham lợi và
căn bản sâu kín là tham ái
Cái gì tái sanh và cái gì tạo nên sự tái sanh? Đức Phật
khẳng định rằng tâm tạo ra tất cả. Trong kinh Hoa nghiêm có dạy rõ điều
này qua bài kệ:
Nhược nhơn dục liễu tri
Tam thế nhứt thiết Phật
Ưng quán pháp giới tánh
Nhứt thiết duy tâm tạo.
Nghĩa là tất cả mọi việc do tâm tạo
ra, tâm làm chủ. Vì vậy, nhận ra tâm mình và làm chủ tâm mình, chúng ta không
còn tạo ác nghiệp, thì không còn khổ và không còn sanh tử luân hồi.
Các vọng kiến ngăn che sanh ra ham
muốn khác nhau là chỉ cho nghiệp, phiền não và trần lao. Phiền não tạo nghiệp
và nghiệp tạo khổ. Gốc của phiền não không có, nghĩa là nếu chúng ta không tạo
nghiệp thì cũng không có khổ. Ví dụ lòng tham của con người là phiền não, do
lòng tham mới tạo nên nghiệp. Nếu không có lòng tham, thì không tạo nghiệp ác
như giết người, cướp của, hay buôn bán bất hợp pháp, v.v... Vì lòng tham muốn
có lợi nhuận lớn và người khác cũng vậy, cho nên mới sinh ra lừa dối nhau, đưa
tới phá sản, tội lỗi.
Lòng tham có tham danh, tham lợi và
căn bản sâu kín là tham ái, tham dục mà
đoạn được là sanh tử luân hồi chấm dứt. Lợi và danh phục vụ cho ái dục, ba cái
tham này gắn liền với nhau và tạo tội liên tục. Người có địa vị và danh vọng
cao, nhưng gia đạo không an, con hư, vợ hỏng, thì họ rất khổ.
Người có địa vị và danh vọng
cao, nhưng gia đạo không an, con hư, vợ hỏng, thì họ rất khổ
Đức Phật đã ý thức được sự tác hại
của tâm tham, nên Ngài đã sớm từ bỏ cung vàng điện ngọc để đi tìm đạo. Đối với
mọi người, ai cũng ham thích cung vàng điện ngọc và kẻ hầu người hạ, nhưng với
trí tuệ của thái tử Sĩ-đạt-ta, Ngài thấy đó là khổ, sung sướng chẳng bao nhiêu,
nhưng khổ đau gây ra cho thiên hạ thì không lường được. Thái tử có ba tòa lâu
đài thích hợp với ba mùa và có trăm ngàn cung nữ ca hát, thị vệ hầu hạ. Người
tham dục thấy như vậy là sướng và có khi còn muốn hơn nữa, nhưng dưới mắt của
Sĩ-đạt-ta, thì đây là tội lỗi, vì một mình Ngài hưởng mà phải bỏ công sức xây
dựng đến 3 tòa lâu đài, tốn kém của dân, là món nợ rất lớn, thì hưởng xong,
phước hết, không sống được trong lâu đài nữa. Phước tạo rất khó, nhưng hưởng
thì nhanh và dễ hết thì khổ, họa tới không lường được. Cho nên Sĩ-đạt-ta thấy
vui trong tham dục để khổ, khổ thân, cho đến khổ tâm. Tất cả những điều này do
đâu mà có? Đương nhiên nó phát xuất từ tâm ham muốn của con người tạo nên. Thật
vậy, tất cả những tòa lâu đài trên thế gian này đều tàn phá thiên nhiên và phát
xuất từ tâm tham hưởng thụ của con người, từ đó tạo nên khổ đau cho mình, cho
xã hội và cho muôn loài. Ngày nay, lòng tham của con người khai thác cạn kiệt
tài nguyên thiên nhiên và thiên nhiên đã đáp trả lại cho chúng ta bằng những
tai họa khủng khiếp.
Phật thấy tâm tạo ác, nhưng cũng
tạo thiện, vì tâm làm chủ, cho nên Phật dạy tu hành là chuyển đổi tâm ác thành
thiện. Ngài Thế Thân chia tâm chúng ta ra hai phần là ác và thiện để chúng ta
phát huy phần thiện và chuyển hóa phần ác thành thiện. Theo Bồ-tát Thế Thân,
chúng ta có 8 phần tâm vương mà gốc của nó là vô thưởng vô phạt. Tâm ví như ông
vua là chủ vô thưởng vô phạt, vì mọi quyết định do quan và tướng, tức là tâm sở
liên hệ với tâm vương. Tâm vương là chủ, nhưng không có tâm sở thì không làm
được gì, cũng như làm vua phải có quan và tướng mới làm được. Trong quan và
tướng có trung thần và nịnh thần, gian thần, nhưng gian thần và nịnh thần thì
đông, còn trung thần chỉ có 11. Ngài ví gian thần như phiền não là tham, sân,
si, mạn, nghi, ác kiến là 6 tên quan nguy hiểm luôn đứng cạnh tâm vương. Vì
vậy, khi vua bị lòng tham tác động nhiều thì nguy hiểm vô cùng, hoặc lòng sân
hận, kiêu mạn, nghi ngờ tác động vô tâm vương mới khởi lên ác xấu. Nói chung là
tánh ác xấu tác động khiến tâm vương khởi. Ta ngồi yên không có gì, nhưng nghe
một người nói tốt, thì ta khởi ý tốt, nghe người nói xấu, ta khởi ý xấu. Trong
6 căn bản phiền não vừa nói thì 5 cái trước không quan trọng bằng cái thứ 6 là
ác kiến và ác kiến cũng sanh ra thêm 5 cái
xấu nữa là thân kiến, biên kiến, tà kiến, kiến thủ và giới cấm thủ, tạo
thành 10 triền, 10 sử. Tâm vương bị 10 triền 10 sử ràng buộc và sai khiến, nên
khổ, ví như ông vua ngồi trên ngai vàng mà như là ngồi trên đống lửa. Lửa này là 10 triền và 10 sử, nếu vua không
sáng suốt sẽ bị cận thần chi phối, sai khiến, họ làm sẵn báo cáo sai rồi buộc
vua ký tên vào. Như ông Khang Hy làm vua lúc mới 3 tuổi, nên mọi việc do cận
thần sắp xếp, đứng đầu là Ngao Bái nhiếp chánh đại thần quyết định; vì trung
thần yếu, còn gian thần, nịnh thần, lộng thần thì mạnh và đông quá, nên vua
phải chịu, phải đợi đến khi Khang Hy 12 tuổi mới khôn và trưởng thành. Ông nói
rằng ông trưởng thành sớm là nhờ đời trước đã tu làm Sa-môn, nên đời này thiện
tâm sở bên trong mạnh; cho nên 12 tuổi mà đã đủ bản lĩnh nắm quyền. Vua Khang
Hy mới thấy ai là trung thần, ai là nịnh thần, là gian thần và nhờ trí tuệ sáng
suốt mà ông sắp xếp lại việc điều hành triều chính. Phật dạy rằng làm sao trí
tuệ sanh ra thì đủ sáng suốt để ta sắp xếp được tất cả những điều xấu ác trong
tâm và tạo điều kiện để nó trở thành tốt. Vì vậy, có thể nói tất cả mọi người
đều tốt và xấu, nếu biết thì mọi việc sẽ thành tốt, không biết thì thành xấu.
Khang Hy nhờ có trí tuệ nên thấy người tốt, người xấu và ông sắp xếp lại đúng
chỗ, biến xấu thành tốt, vì hoàn cảnh xấu không có thì không làm xấu được. Hoàn
cảnh xấu là vua 3 tuổi chưa biết gì, nên họ làm loạn; nhưng vua 12 tuổi biết rõ
mọi việc, mới bắt xử những người xấu thì hết loạn. Chưa biết thì người nịnh nói
theo ta, ta thương họ và cất nhắc họ là ta sử dụng người nịnh, nên chết. Có trí
tuệ thì dù họ nói gì, ta cũng biết rõ sự thật.
Hoàn cảnh và thời thế thay đổi, nhưng cố chấp là chết
Đời Đường có vua Đường Thái Tông
lên ngôi và sử dụng học giả Ngụy Trưng
dám nói thẳng, nói thật, nhờ vậy vua mới biết được việc nên làm, mới có ngài
Huyền Trang phát triển Phật giáo. Vua Đường có trí tuệ, nhận thấy người nịnh
nói hay, nhưng không thật và vua thấy lộng thần tự bịa chuyện nói là ý chỉ vua
để ban chức cho người này người nọ làm xã hội đảo điên. Đường Thái Tông thấy rõ
như vậy mới ban lệnh phải sống theo pháp luật, không theo lịnh của vua nữa. Ông
vua này rất bình tĩnh và sáng suốt.
Tâm vương cũng thế, khi tâm chúng
ta bình tĩnh, sáng suốt, sẽ nhận thấy
những thứ xung quanh tác động chúng ta là 10 triền cái, tức tham, sân, si, mạn,
nghi, ác kiến, biên kiến, tà kiến, kiến thủ và giới cấm thủ. 10 triền cái này
chi phối con người và xã hội. Giới cấm thủ là cố chấp việc nào đó, nên không
dám thay đổi. Hoàn cảnh và thời thế thay đổi, nhưng cố chấp là chết. Ví dụ Phật
cho 1 y 1 bát, nhưng mùa đông lạnh, Phật cho 3 y để một cái nằm, một cái đắp
cho đủ ấm để sống, nếu cố chấp giữ 1 y là chết. Vì vậy, ở cuộc đời này không có
gì cố định, phải có trí tuệ thấy sự thật chuyển hóa, thì chúng ta chuyển hóa
theo đó. Phật dạy giới định tuệ mà chính tu là dùng định, tức tập trung để
phiền não đừng chi phối chúng ta.
Dùng 11 thiện tâm sở để phá bứt mắt
xích của 10 triền cái để tâm chúng ta yên. 11 thiện tâm sở là tín, tàm, quý, vô
tham, vô sân, vô si, tinh tấn, khinh an, hành xả, bất phóng dật và bất hại.
Người tu phải sử dụng 11 thiện tâm này làm phương tiện tu hành. Tôi vượt khó
khăn nhờ sử dụng thiện tâm sở thứ 11 là bất hại, nghĩa là làm gì cũng được,
nhưng không hại người. Nếu không làm tốt thì thôi, đừng làm hại, vì làm tổn hại
phải bị quả báo. Xưa kia Phật cứu 500 người thương buôn, mà Ngài phải giết tên
cướp, nên Ngài cũng phải chấp nhận quả báo này. Vì vậy, khi thành Phật rồi,
Ngài cũng bị một nạn cuối cùng là nạn bị thương ở chân, nhưng là trả quả báo
nhẹ.
Trên bước đường tu của chúng ta,
quan trọng phải làm sao tránh làm hại người, hại vật; vì làm hại thì sớm muộn
gì, quả báo cũng tới. Làm ác nhiều thì quả báo nặng, làm ác ít, quả báo nhẹ.
Phải tránh điều hại và hại này, chúng ta phân ra là miệng, thân, hay tâm làm
hại. Phật do thân làm hại tên cướp biển, nhưng tâm Ngài không ghét thù hắn. Vì
cứu người mà Ngài phải giết hắn, là thân tạo ác nhưng tâm không tạo ác, tức tâm
thương người lương thiện bị cướp giết, nên Phật chấp nhận quả báo này. Tên cướp
bị giết hận Phật suốt bao nhiêu kiếp cứ theo Phật để báo thù và tâm Phật cũng
nghĩ đến tên cướp, nghĩa là vô tình làm hại sẽ gây hối hận suốt đời cho đến
nhiều đời. Oan gia này đi theo Phật và chờ cơ hội tốt để trả thù, nhưng không
được, vì Phật làm thiện quá nhiều, nên chung quanh Phật, người thiện nhiều, là
thường có Thiên long bát bộ bảo vệ. Tâm Phật cũng thiện nhiều, nên quả báo này
không xảy ra được. Đến khi Ngài thành Phật phải trả quả báo này, mới khiến có
người em họ của Phật là Đề-bà-đạt-đa hại Phật bằng cách xô đá rớt xuống làm
chảy máu chân Phật. Lòng Phật thanh thản trả được món nợ xưa. Còn chúng ta vay,
nhưng không muốn trả; trong khi Phật luôn tìm cách để trả và Ngài đã trả 8 cái
nợ cuối cùng mà Ngài đã vô tình làm khi hành Bồ-tát đạo.
Tu Thanh văn làm an lạc thì dễ, nhưng tu
Bồ-tát muốn chuyển ác thành thiện thì làm sao vừa lòng tất cả mọi người. Nếu
chúng ta vừa lòng kẻ cướp thì xã hội này sẽ ra sao. Bắt tập trung cải tạo những
người phạm pháp, xã hội mới yên. Hành Bồ-tát đạo là vì muốn người ăn ngon ngủ
yên, nên phải bắt trộm cướp, xì-ke; còn con kiến cũng không dám giết thì xã hội
sẽ đi về đâu. Chúng ta cần cân nhắc trên bước đường hành Bồ-tát đạo, quả báo
càng nhẹ càng tốt, công đức càng nhiều càng tốt. Luôn có tâm bất hại đối với
người và vật, nhưng bất đắc dĩ ta mới phải làm tổn hại.
Tâm thứ hai mà chúng ta phải sử
dụng là tâm hành xả, nghĩa là những gì
đã qua, chúng ta bỏ qua, tâm chúng ta thanh thản thì huệ mới sanh được. Để tâm
thanh thản, trí tuệ sanh, cái gì cũng đưa về quá khứ, để nhìn hiện tại chính
xác. Phải hành xả là bỏ, còn làm mà nghĩ đến thành tích, không đi xa được. Cố
gắng làm tốt, nhưng xong việc phải bỏ để ta tiếp tục đi tới. Mang bệnh thành
tích, làm ít, nhưng kể không hết, thì ai quý trọng được. Vì vậy, suốt đời giúp
người, nhưng không để trong lòng và không nói, thì người thọ ơn quý trọng ta.
Phật nói vô lượng kiếp Ngài đã hành
Bồ tát đạo, tạo vô số công đức, nên thấy
Phật là chúng ta thương liền. Phật không cần chúng ta biết ơn và trả ơn. Kinh Pháp
hoa nói 60 kiếp trước Phật đã độ Xá-lợi-phất phát tâm bồ-đề, nên kiếp này
thấy Phật là Xá-lợi-phất đắc quả liền. Riêng tôi, ai thấy tôi mà sanh quý
trọng, thì tôi biết đó là bồ-đề quyến thuộc trong những kiếp trước. Ai thấy tôi
mà bực bội thì đó là oan gia gặp lại. Oan gia nên giải, còn công đức quá khứ
thì nên tiếp tục dìu dắt nhau.
Tâm hành xả và bất hại quan trọng;
ngoài ra, thiện tâm sở đầu tiên là tín, tức niềm tin cũng cần thiết. Vì vậy,
chúng ta phải sống thành thật để giữ niềm tin với nhau. Điều gì làm không được
thì nói không được, đừng nói mà không làm sẽ làm mất chữ tín thì không ai dùng
mình. Niềm tin là mẹ sanh ra tất cả thành công, người làm mất niềm tin không
tồn tại được. Trước nhất là niềm tin đối với thầy, bạn thân cận gần gũi với ta,
làm việc chung với ta. Những người này không tin cậy nhau thì sớm muộn gì đoàn
thể cũng tan rã.
Niềm tin giữa thầy và bạn mà thầy là Phật, bạn
là Bồ-tát. Chọn Phật làm thầy và bạn là Bồ-tát, chắc chắn cuộc đời ta sẽ thăng
hoa. Riêng tôi có được trí tuệ sáng suốt là nhờ Phật lực gia bị và việc thành
tựu là nhờ Bồ-tát hợp lực. Làm sao gầy dựng niềm tin giữa huynh đệ và nâng lên là
Phật và Bồ-tát. Chúng ta sống trong thế giới có niềm tin thì những nịnh thần,
loạn thần, kẻ xấu không tác động được và bất cứ ở đâu cũng có bạn tốt, Phật sự
thành công.
Tóm lại,
11 thiện tâm sở luôn áp dụng, thì sẽ có kết quả tốt đẹp. Sử dụng ác tâm sở nhiều
thành ma, sử dụng thiện tâm sở nhiều thành Bồ-tát và hoàn toàn thể hiện thiện
tâm sở trong cuộc sống thì thành Như Lai. Mong rằng tất cả đệ tử Phật phát huy
được thiện tâm sở trọn vẹn để thành tựu quả vị Phật.