Phải biết thẩm định giá trị mỹ học bằng chính con mắt
của mình chứ đừng mượn mắt của người khác. Và tôi cũng chợt có ý nghĩ: Chưa
chắc Vương Duy đã ‘hiểu’ Thiền là gì – như qua cái ‘thấy’ của Tô Đông Pha trong
bài viết này!)
Đọc một câu thơ, thấy
một “nhãn tự”, nghĩa là thấy một chữ
đắc địa, thật là thú vị! Đọc một bài thơ, thấy một câu hay thì thật là sảng
khoái! Xem một tập thơ, thấy được dăm bảy bài hay, chừng chục bài đường được,
số còn lại dẫu chưa đạt nhưng câu kéo, chữ nghĩa ra vẻ đã có một sự lao động
nghiêm túc thì thật không uổng phí thời gian “vén mây tìm trăng”!
Tôi làm thơ đã trên
dưới 50 năm. Đối với ai không biết, chứ riêng tôi thì nó đã đọa đày, đã rút hết
tinh lực của tôi không phải ít!
Trong một quyển sổ tay
văn học, cách đây đã mấy mươi năm, tình cờ gặp lại trong đống lưu cảo, tôi có
chép: “Báo Văn Nghệ Thứ Bảy, số 3, ra
ngày 18/01/1992, có bàn về Cái Tĩnh và Cái Không trong thơ. Đọc được lắm, khá
hay, nhưng tiếc là chưa tới! Giá như họ hiểu Tô Đông Pha thêm một chút, hiểu
Cái Tĩnh và Cái Không của Phật hơn một chút nữa! Nhưng mà không sao, vậy là quý
rồi! Có chút đổi mới rồi đấy!” Tên tác giả bài viết, vì sơ ý thế nào mà tôi
lại không chép luôn? Bậy quá. Bây giờ cũng không còn nhớ nội dung! Chẳng rõ lời
nhận xét trên có đúng chăng? Có võ đoán và chủ quan chăng? Vậy, xin lỗi về tất
cả. Lật sang trang sau, thấy có một bài viết có tựa đề: “Xin mạo muội ‘nối điêu’ về Cái Tĩnh và Cái Không trong thơ, trong
con-người-thơ của Tô Đông Pha”.
Tôi xin chép lại đây
bài viết thuở ấy. Nó như sau:
Người ta bảo rằng, Tô
Đông Pha là một thi sĩ thượng thừa, trầm luân khoát hoạt, quảy cuộc chơi “lao viễn mộng” trên đôi cánh thiên thu
để bay qua cõi huyền hư khói sương cát bụi! Thế mà tại sao, thật là ngạc nhiên dĩ
hĩ, Tô thi sĩ của chúng ta lại có 5 điều không hiểu nơi Đạo Tiềm ? (1) Thật
tình mà nói, đây là người viết không hiểu hay Tô thi sĩ không hiểu! Tô của
chúng ta kiếp trước là thiền sư Ngũ Tổ Sư Giới kia mà! Chỉ do một niệm sai sẩy
cỏn con nên bị trầm luân, đọa đày đó thôi!
Xem nào, Tô nói Đạo,
tại sao: “Một, thân lạnh mà đạo giàu?
Hai, văn rành rõi mà nói năng chậm chạp? Ba, ngoài mềm mà trong cứng? Bốn,
không ganh đua với đời, nhưng hay châm chọc cái quấy? Năm, hình khô, tâm lạnh
nhưng không vong tình, biết thưởng ngoạn ngoại vật”. Đúng rồi, Đạo Tiềm là
một vị sư, lại là thi sĩ nên làm sao tránh khỏi chạy theo cái rực rỡ của văn
tự, ngữ ngôn? Mà khi đã lỡ bước vào thế
giới văn tự, ngữ ngôn rồi thì than ôi, đã trở thành cái nghiệp dĩ không rời,
chung thân khổ sai trong cuộc đọa đày “lao
viễn mộng”. Tô trách Đạo “tại sao học
đạo khổ không, trăm niệm tưởng đều như tro lạnh hết, sao lại còn muốn bộc bạch
cái hào, cái mãnh với ai?” (2)
Có du hí với nhau
không đó?
Thật ra, đấy mới chỉ
là mở đề, nội dung cốt lõi bài thơ Tô tặng Đạo là bàn về tinh yếu của thơ, cái
thượng thừa của thơ, cõi chơi ngàn cao sương khói của thơ. Thơ ấy phải vừa
Không vừa Tĩnh, vừa Tĩnh vừa Không; trong Không có Tĩnh, trong Tĩnh có Không!
Vì Không nên dung chứa tất thảy trăng sao, núi sông, tất cả cỏ cây, hoa rác,
cát bụi trần gian. Nhờ Tĩnh nên tất thảy đều được phản chiếu trong tâm hồ xanh
trong, lặng lẽ.
Còn nữa. Nhờ Không nên
sinh tử, trầm luân, đọa đày mà không sinh tử, không trầm luân, không đọa đày dù
một mảy tơ hào! “Lao viễn mộng” mà
chẳng lao viễn mộng một tí xíu nào. Nhờ Tĩnh nên dẫu có nắng quái, mưa cuồng,
sóng dồn, gió dập - thi nhân vẫn điềm nhiên tọa thị ngắm nhìn tính mệnh của
mình khoác áo trăng tà rong chơi trong cuộc lữ huy hoàng mộng triệu!
Cõi chơi của thơ mở
ra!
Và đấy là cõi chơi
thượng thừa của Tô thi sĩ của chúng ta. Nó có đầy đủ cảm khái thế tình, thân
phận, xót xa, cô đơn, đói lạnh, buồn đau, tình yêu, tình bạn, chan hòa với thiên nhiên ngoại vật... ở một góc tâm hồn vô
cùng thanh khiết, cao diệu của nhà thơ vốn kiếp trước là một nhà sư!
Thế vậy! Nhưng ai là
người đọc được, nghe được mật ngữ ấy trong thế-giới-tâm-linh-thơ
của Tô tiên sinh? Có đấy! Một ngàn năm sau, có một nhà-thơ-lãng-đãng-mù-mịt-biên-phương là Tuệ Sỹ, đã từng “thắp đèn khuya ngồi kể chuyện trăng tàn”
nghe được ngôn ngữ bí tàng, thâm diệu ấy ở trong tập sách “ Tô Đông Pha - những phương trời viễn mộng” của ông.
Và bây giờ, là tu sĩ,
lại có làm thơ, tôi đã cảm nhận rất thấm thía điều mà Tô nói với Đạo, điều mà
Tuệ Sỹ “nghe” được từ thế giới tâm
linh thơ của Tô - nên tôi còn muốn “nối
điêu” chỗ này thêm chút nữa!
Tĩnh ở nơi tâm, Không
ở nơi trí! Vậy Tô đã thật sự có Tâm Tĩnh (Định)
và Trí Không (Tuệ) chưa - hay mới chỉ
có Tâm Tĩnh và Trí Không ở trong thơ? Thi nhân (người sống thơ) và thi sĩ (kẻ
làm thơ) đã khác nhau một trời một vực rồi - giữa nhân cách và ngôn ngữ,
giữa người và thơ - huống hồ thiền sư và thi sĩ!
Người học thiền là học
cái chi chi? Nói theo yếu tính thiền, là có chi cũng trật mà không chi cũng
chẳng nhằm! Khổ nỗi, có một thời, thiền của chúng ta - tôi muốn nói thiền Đông
độ và thiền Zen - do “thõng tay vào chợ”
quá nhiều mà bị lấm lem mặt mũi, khó nhìn ra chân tướng! Soạn phẩm thiền luận
của Suzuki rất uyên áo, thậm mật, rất bổ ích cho nhận thức luận, có thể “thò tay nắm bắt thực tại mà không mang găng
tay” - Trúc Thiên và Tuệ Sỹ dịch - nhưng tiếc thay, có một thời, có một số
thanh niên bị tẩu hỏa nhập ma! Những trí thức trẻ đáng yêu của chúng ta với tóc
tai bù xù, râu ria hỗn loạn, tay ôm bộ sách thiền luận, ngồi đấu láo với nhau
nơi các quán cà phê vỉa hè, là hình ảnh làm xúc phạm bậc học giả chân tu Suzuki
không phải ít! Cũng từ đấy mà sinh ra thiền-sư-bụi-đời,
thiền-sư-lang-thang và cả
thiền-sư-thi-sĩ nữa! Do nội hàm cả ba loại thiền sư này nên họ nói rằng, họ
lao thân vào khổ đau, vào hư vô, vào bụi bặm trần gian bằng chính hơi thở, thịt
xương và cả sinh mệnh của mình! Nói cách khác, họ để cho dục vọng đổ tràn vào
cuộc chiêm nghiệm, thử lửa ấy, rồi nói rằng, dẫu “đọa đày lao viễn mộng” nhưng chẳng “đọa đày lao viễn mộng” một tí xíu nào! Họ thấy được tính Không của
chúng nên cuộc chơi trần tục, bụi bặm của họ vẫn Tĩnh! Thế rồi, họ luôn Không
và Tĩnh, luôn Tĩnh và Không!
Than ôi! Tôi có câu
thơ tặng họ:
“- Hư vô thổi rụng hai hàng chữ!
Để cục trần gian hiện mặt mày!”
Thiền sư không thể là
thi sĩ! Đã là thi sĩ thì không thể là thiền sư! Yếu tính thiền, cốt tủy thiền
thì ở ngoài thế giới khái niệm, ước lệ - không có loại ngôn ngữ nghệ thuật nào,
thẩm mỹ nào có thể với tay đến thế giới đó được. Nó ở ngoài mọi bến bờ, biên
cõi! Đã là thiền sư thì các vị không cần loại ngôn ngữ kiểu cách, văn hoa, hay
đẹp! Họ chỉ cần nói thực, giản dị, hiện tiền, cụ thể, sinh động! Ngôn giáo của
họ bao giờ cũng như chân, như thật, nhắm đến sự khai ngộ cho các căn cơ môn
sinh hoặc đại chúng! Nó luôn là đệ nhất nghĩa, vượt các khái niệm phạm trù, tục
thể! Đây là cuộc chơi nghiêm túc, đáng tôn kính mà không một thiên tài thi sĩ
trần gian nào - cả Đông và Tây - bén mảng tới được!
Thi sĩ lại càng không
phải là thiền sư vì tâm hồn họ còn tràn trề và lai láng quá, đôi khi họ không
làm chủ được cảm xúc của mình, kể cả cảm xúc thẩm mỹ, kể cả cái rực rỡ của văn
tự! Đây có thể là chỗ mà Tô Đông Pha trách nhẹ ông sư Đạo Tiềm chăng?
Cũng có thể thiền sư
và thi sĩ “là một” - nếu thi sĩ nhìn ngắm thực tại trong chớp mắt vi vút trôi
qua với tâm thái hoàn toàn trạm nhiên tịch lặng (Tĩnh). Và thi sĩ có thể buông xả tình, thức ngay khi vừa diễn đạt
tình, thức mà không một tơ hào dính mắc nào; buông xả một cách tự nhiên, như nhiên
như lằn chớp lóe hiện giữa hai sát-na sinh diệt (Không). Và cuối cùng, nếu có làm thơ thì câu thơ ấy phải nóng hổi
và tinh khôi sự sống, đang vận động và hoạt dụng hiện tiền, không có lông lá và
râu ria của tình, thức chủ quan găm cắm lên thực tại! Một số ít bài thơ của
thiền sư Trung Quốc, Việt Nam
và Haiku Nhật Bản có được kích thước và phong độ ấy. Có thể họ đã nói ra thơ
một cách tự nhiên chứ không gượng ép ngôn ngữ, cả không kỹ xảo ngôn ngữ!
Ôi, than ôi! Cuộc chơi
vô biên, vĩnh cửu, thượng thừa này, hồ dễ không trải qua công phu ngàn năm
sương khói hay sao?
Chưa hết, còn nữa.
Tĩnh là tâm định, vắng lặng tham sân, phiền não. Không là tuệ không, thấy rõ
tánh không của ngã và pháp. Tĩnh và Không này là thực địa, là chỗ rong chơi của
thiền sư nhưng lại là nấm mồ vùi chôn ngôn ngữ nghệ thuật của thi sĩ!
Tuy nhiên, nói về
người và thơ thì nó có khác. Thức tri dù không thể sống trong cõi Tĩnh và Không
nhưng nó có thể thức tri cõi Tĩnh và cõi Không ấy! Thức tri có thể tự trang bị
cho mình một đôi mắt từ ngàn cao sương khói, chỗ giải thoát thênh thang của
Tĩnh và Không để nhìn ngắm thế giới hỗn mang, đa phức và rối rắm của trần tục!
Ngôn ngữ thơ, theo đó,
nói như cách Tô đã nói với Đạo:
Vô áp Không thả Tĩnh
Tĩnh cố liễu quần động
Không cố nạp vạn cảnh
Duyệt thế tẩu nhân gian
Quán thân ngọa vân lãnh
Hàm toan tạp chúng hảo
Trung hữu chí vị vĩnh”.
Vậy là đã rõ! Nếu là
chân diệu thơ, thượng thừa thơ thì thơ ấy: “Đừng
có gò ép, phải vừa Không, vừa Tĩnh! Nhờ Tĩnh nên nó tóm thâu tất thảy mọi vọng
động. Nhờ Không nên nó dung nạp được vạn cảnh. Nhìn ngắm sự đời, bôn ba giữa
cuộc đời mà thấy mình nằm trên chóp đỉnh mây cao. Và cũng từ đây, thơ đi vào
cuộc đời, nhấm nháp đủ mọi đắng cay, mặn nồng, chua ngọt của nó để cảm nghiệm
hương vị thù thắng của cõi đại toàn!” (3)
Đấy có thể là hành
trạng của Tô Đông Pha và thế giới thơ của ông - một nhà thơ có tâm thiền, có
con mắt thiền?
Và khi ấy, vị thiền sư
sẽ lặng lẽ tặng chàng thi sĩ - chỉ trong một con người, trong một tâm linh thơ:
“Không cả Tĩnh và Không
Cả hai đều thanh thản
Đừng để chúng trói buộc
Là Niết-bàn thi nhân”.
Tô Đông Pha có kết
luận: “Thi, Pháp không chống trái nhau!”
Đúng! Và tôi cũng thấy rõ nó là “bất
tương phương”, nhưng thơ bao giờ cũng tâm trạng, nỗi niềm nhưng thiền thì
không phải thế!
Thơ đã như một nghiệp
dĩ, một định phận không rời. Đúng là một cuộc đọa đày “lao viễn mộng”. Tất cả đó đều đang trên đường. Và trên lộ trình
ấy, biết bao nhiêu là thao thức, là trăn trở. Với tất cả. Với cả trần gian.
Thơ bao giờ cũng có
bụi, có trăng và có lửa. Giữa sự trơ cảm của con người, giữa máy móc của lý
tính, giữa sự khô hạn của tâm hồn, thơ cần thiết cho nhân sinh hơn lúc nào hết.
Đôi khi nó chỉ đơn thuần là kỷ niệm, là tự sự của một kẻ lên đường, tìm kiếm
một cái gì vô danh, lạ mặt chẳng bao giờ lộ diện giữa đời thường với những tham
vọng, toan tính, sáo mòn và chật hẹp của nó. Do vậy, thơ như đang bay trong
chân trời tuyệt lộ. Tuyệt lộ ngay chính chỗ đang bay, tuyệt lộ trên đôi cánh và
tuyệt lộ cả cõi về! Đây chính là hố thẳm ngăn cách giữa ngón tay và mặt trăng,
giữa ngôn ngữ biểu đạt và thực tại tuyệt đối, giữa hình tượng nghệ thuật và mỹ
học ngàn đời, nhất là mỹ học tâm linh.
Thơ và người, thơ và
thiền là cuộc tao phùng kỳ ngộ vô song, xa hút và bập bềnh trong khói sương
mộng huyễn, thật khó mà nhìn ra chân tướng.
Cái Tĩnh và cái Không
nó “như thị ngã văn” như vậy.
Minh Đức Triều Tâm Ảnh
Am Mai Trúc, Xuân Giáp Ngọ
Chú thích:
(1) Đạo Tiềm, tức là
Sâm Liêu Tử, người sống cùng thời và bạn giao tình thi ca với Tô Đông Pha (1035
- 1101) đời Tống, chứ không phải Đào Tiềm (Đào Uyên Minh) đời Tấn.
(2) Xem thêm “Tô Đông Pha - Những
phương trời viễn mộng” của Tuệ Sỹ, NXB Ca Dao, năm 1973.
(3) Diễn ý có khác với Tuệ Sỹ một
chút.