Chùa Bửu Minh

Nói về hàng đan bằng tre thì Phù Mỹ là một trong những huyện khá nổi tiếng về chuyện đan và sử dụng những hàng hóa này.



 

Từ nhỏ cứ đến phiên chợ An Lương - Mỹ Chánh  vào các ngày 3, 8, 13, 18, 23, 28 Âm lịch thì đã có thấy một khu vực bán đồ đan bằng tre ở ngay đầu chợ. Cạnh đó là một khu bán toàn cây tre. Những cây tre đài thẳng thón (thẳng đuột) được đốt uốn hẳn hoi được đặt ngay ngắn thẳng hàng trông rất đẹp mắt. Từ phiên chợ An Lương, những cây tre đi về các ngả đường. Miền làm nông thì đan rổ, rá, nia, dừng, rổ xảo, rế đặt nồi cơm… Cũng có thể là cây rui, cây mè để lợp nhà. Người dân ở quanh đầm Đề Gi thì về đan thúng đi câu, đi xiết… Nói chung không thể nào nói hết những thứ hàng hóa được làm từ tre hay lợi ích của cây tre trong đời sống của người dân.
 
Cũng không ai đề ý là tại sao những cây tre luôn suông thẳng và không có gai hay nhánh. Đơn giản vì đã bị chặt khi tre còn nhỏ. Những nhánh tre có thể làm củi hay bện hàng rào quanh nhà. Còn một điều nữa cũng khá hay là chính những cái nhánh tre đầy gai xương xẩu đó mà cũng có tiền. Mùa đắp đập sau lụt, những nhánh tre đó bó thành bó gọi là bẩu được dùng để chăn nước trog khi đắp đập. Tôi còn nhớ có một năm cha tôi chặt đâu được mấy chục bó bẩu, tiền bán số bẩu đó đủ để đóng tiền niên liễm cho tôi trong một năm học. Nói như thế để biết cây tre giá trị thế nào trong đời sống sinh hoạt của người dân.
 
Một thời, từ sáng tinh mơ có những ông Cụ một tay cầm gậy còn tay kia cầm một xâu rổ, rá, dừng, sáng đủ thứ đến phiên chợ. Đã qua thời ngang dọc các cụ giờ đây nhẹ nhàng sống bằng cái nghề đan tre để sống những ngày còn lại.
 
Ở An Xuyên - Mỹ Chánh có một đôi vợ chồng già nay còn sống. Có lẽ Cụ ông đã gần trăm tuổi. Nhà Cụ có hai cái đìa cá cho thuê mỗi năm mấy trăm triệu. Nhưng hai Cụ hàng ngày vẫn sống bằng cái nghề đan rổ hay cái gì mà bà con trong xóm cần đến. Một cái rổ nhỏ chỉ mấy ngàn bạc chứ có nhiều nhỏi gì nhưng Cụ vẫn làm. Cụ bà thì nướng ít bánh tráng làm chả tôm và bán vài thẩu kẹo. Cái ông bà cần là có người ra người vào cho vui nhà vui cửa nhất là con nít. Chiều chiều một đám khói trắng bốc lên trước nhà tỏa ra xung quanh, đó là ruột của cây tre thành rác được đốt đi. Khói nhiều thì ngày hôm đó cụ làm được nhiều.
 
Nhiều khi anh em bà con trong làng mang đến những cái thúng, nia, sàng, dừng đã bị hư đến nhờ ông cạp lại. Chính nhờ rổ rá cạp lại mà tình làng nghĩa xóm như thắt chặt hơn.
 
Ngày còn nhỏ, tôi cứ thấy cái giường tre nhẵn bóng của nhà mình được vác đi cho cả làng. Có khi một năm sau nó mới trở về với chủ. Sau này, khi lớn lên tôi mới hiểu là người dân của quê mình khá “mê tín”. Mẹ tôi sinh ra tôi là người con thứ 8. Tất cả anh em tôi đều khỏe mạnh không ốm đau bệnh tật gì, cứ thả lăn thả lóc mà lớn lên như thổi. Mọi người trong làng tin rằng cô gái nào sinh con trên chiếc giường đó dứt khoát sẽ “mẹ tròn con vuông”.
 
Ký ức về cái thúng
 
Trong tất cả các vật dụng đan bằng tre theo tôi không cái gì được sử dụng bằng cái thúng. Cái thúng là một danh từ mà chứa đựng rất nhiều từ “đựng”. Mẹ đi chợ phiên cũng mang cái thúng để mua hàng bỏ vào đó mang về. nếu nặng thì dội ở trên đầu. Một tay giữ cái thúng còn một tay đánh xàng xa. Bánh trái ngày giỗ, ngày tết cũng đựng trong thúng để ở nhà bếp.
 
Cái thúng, vật dụng quen thuộc trong mỗi gia đình người dân quê ta. Ảnh: TTD
 
“Bánh tết mẹ để ở đâu hở mẹ ?”
“Ở trong thúng dưới bếp đó con!”
 
Và còn nhiều câu đại loại như thế trong ngôn ngữ giao tiếp của gia đình.
 
Hình ảnh hằn in trong tâm trí tôi không thể xóa nhòa là hình ảnh mẹ mang cái thúng đi mượn gạo về nấu cho đàn con.
 
Năm 1965 quê tôi chiến tranh tàn phá, gia đình tôi phải tản cư lên Mỹ Quang  để ở. Nhà tôi ở trọ là nhà chú Điểm (sau này là lò gạch Nguyễn Điểm ở đầu cầu Bình Trị ). Chân ướt chân ráo đền miền đất mới chưa có gì để làm nên tình trạng đói cơm lạt mắm là lẽ thường. Cả ngày mấy anh em bị đói không có gì để ăn nên mẹ tôi nhốt mấy anh em tôi ở mái hiên nhà chú Điểm và cắp cái thúng ra đi. Phải đến trưa mẹ tôi mới về, thấy từ xa mẹ đội cái thúng trên đầu là mấy anh em đã biết mẹ đã có cái gì mang về. Mấy anh em nhảy lưng tưng mừng mẹ về. Trong cái thúng mẹ mang về có một ít gạo và một ít mì lát khô. Có cả mấy trái thị thơm và mấy trái chuối non nữa. Thì ra mẹ tôi mang thúng đi không phải để mượn gạo như mẹ nói mà bà đi làm gì đó. Nghe người chị nói lại là mẹ tôi đi gánh phân đổ ruộng cho một gia đình ở cách đó không xa và người ta trả công là những thứ mà mẹ bỏ trong thúng mang về.
 
Qua cảnh đời như thế mà mẹ tôi luôn dạy dỗ con cái một chân lý bất di bất dịch “Cái này ăn trong miệng thì không được chê khen. Ngon ăn nhiều, dở ăn ít. Không được chê này chê nọ”.
 
Thời cuộc đổi thay
 
Hàng đan bằng tre đã bị hàng nhựa đáng bạt khỏi thị trường. các loại rổ rá bằng nhựa tràn ngập ngoài chợ với nhiều màu sắc sặc sỡ. Cây đũa “bíp” khi xới nồi cơm cũng không còn thấy trong các gia đình. 
 
Những hàng tre dọc sông La Tinh, sông Lu Xiêm Giang nay đã phá bỏ để làm bờ kè bằng bê tông.
 
Đàn cò trắng chiều chiều bay về tan tác kêu vang trời thảm thiết vì không còn nơi để đậu.
 
Nhiều khi viết lên đấy những điều đã xa xưa. Thế hệ trẻ nhiều người không cảm nhận được. Cũng không trách gì ai chỉ vì những điều đó đã mất và sự mất mát này dễ gì lấy lại được.
 
Trở lại quê hương điều dễ nhận ra trước tiên là cái hồn của làng quê xưa đã mất, và mất vĩnh viễn.
 
Lê Phù Mỹ


©2010 -2024  Chùa Bửu Minh | Homepage