Hơn
nữa, nếu nói về một trường hợp cụ thể, mà chỉ căn cứ trên ảnh chụp và
vài dòng chú thích, thì đương nhiên là không thực tế, không đủ cơ sở.
Bên
cạnh đó, điều chúng tôi muốn là việc góp ý chung nhằm mục tiêu xây
dựng, đối với một việc tương đối phổ biến. Thông qua một trường hợp cụ
thể chỉ là điều đắc dĩ.
1) Bảng
Mới
đây, người viết bài này có được xem một số hình ảnh sinh viên một
trường Phật học lớn thực tập diễn giảng. Giảng đường có một bảng lớn và
một màn hình chiếu ảnh. Thế nhưng, cả 2 phương tiện trên đều không thấy
các sinh viên thực tập diễn giảng sử dụng, cho dù buổi thực tập có liên
quan đến môn sư phạm hoằng pháp. Mà trong hoạt động sư phạm, kỹ năng sử
dụng bảng, trình bày bảng là hết sức quan trọng, có tính chất bắt buộc,
là một trong những cơ sở để đánh giá hoạt động giảng dạy.
Khi giảng dạy bộ môn Phương pháp giảng dạy trong nhà trường sư phạm, yêu cầu được nhấn mạnh là dàn ý của bài giảng phải được thể hiện đầy đủ trên bảng,
tương ứng với quá trình người giáo sinh trình bày nội dung bài giảng.
Nội dung trình bày bảng phải là sự thể hiện cụ thể, khái quát nội dung
bài giảng.
Trừ
những trường hợp đặc biệt, thì sau khi tiết học hoàn tất, toàn bộ dàn ý
bài học phải được thể hiện trên bảng đầy đủ, mạch lạc, diện tích bảng
phải được sử dụng hết, hợp lý, cân đối.
Giáo
sinh được lưu ý tránh việc “dư bảng”, “thiếu bảng” (phải xóa bớt một
phần nội dung dàn ý đã được thể hiện). Giáo sinh cũng được lưu ý là chữ
trình bày bảng phải đẹp, rõ ràng, kích thước hợp lý, ngay ngắn nội dung
trình bày trên diện tích bảng được phân chia hợp lý, các đường gạch
chân, đóng khung phải thẳng.
Giáo
sinh môn toán còn được lưu ý khi vẽ hình phải dùng thước kẻ để bảo đảm
các đường thẳng phải thật thẳng, phải dùng com-pa gắn phấn để vẽ các
hình tròn, không được chỉ dùng dây.
Tôi thấy có lần, thầy giáo hướng dẫn toán cho điểm kém buổi giảng thực tập vì giáo sinh vẽ hình tròn bằng… giẻ lau bảng vải.
Từ
đó, dẫn đến thói quen tốt, là một số thầy cô giáo, trong bất cứ hình
thức trình bày nào, cũng yêu cầu phải có bảng. Vì sử dụng bảng, ngoài
tác dụng làm người nghe nắm được nội dung trình bày một cách dễ dàng,
chính xác, thuận tiện trong việc ghi chép, còn có tác dụng giúp người
giảng bài bám sát bài giảng, không sa đà, lạc đề.
Nội
dung trình bày trên bảng phản ánh việc phân bổ thời gian tiết học.
Chẳng hạn, 50% thời gian đã sử dụng thường ứng với 50% diện tích bảng
được trình bày cố định (trừ những trường hợp đặc biệt).
Rất
tiếc, nghe nhiều các băng giảng giáo lý Phật giáo ghi âm tại chỗ, thì
không nghe thấy những âm thanh thể hiện việc vị pháp sư sử dụng bảng, cả
đối với những lớp học thường xuyên lẫn những buổi giảng không thường
xuyên.
Khi
tôi thường xuyên đi nghe giảng pháp tại chùa Ấn Quang (từ năm 1978 đến
năm 1982), thì thấy quý thầy cũng không sử dụng bảng (cả trong những
khóa giảng dành cho Tăng Ni), mà chỉ dùng bảng để viết minh họa một vài
chữ Hán (dù giảng đường có 2 bảng 2 bên). Còn tại chùa Kỳ Viên thời gian
sau đó, giảng sư không bao giờ dùng bảng, vì thuyết giảng bên trong
chánh điện.
Tôi
cho rằng, trong giảng dạy, liên hệ đến kỹ năng sư phạm, thì không thể
không dùng bảng và đồng thời, lại càng phải chú trọng đến việc trình bày
bảng sao cho “sư phạm”, khoa học. Không dùng bảng là điều thiếu sót,
tất yếu làm giảm hiệu quả sư phạm.
2) Slide (chiếu ảnh)
Slide
trong sư phạm là một hoạt động trực quan hỗ trợ cho việc trình bày
bảng, vừa có thể là một biến thể của trình bày bảng (không dùng bảng
nữa).
Ở
trường hợp là một biến thể của trình bày bảng, nội dung chiếu ảnh gồm
cả việc nội dung phải trình bày trên bảng. Toàn bộ dàn ý bải giảng đã
nằm trong series ảnh chiếu có quá trình phân bố thời gian chiếu phù hợp
với tiến trình trình bày bài giảng.
Hiện
nay, chiếu ảnh là hoạt động hầu như không thể thiếu trong các buổi
thuyết trình. Nội dung trình chiếu còn được in sẵn thành tập trên giấy
phân phát để cử tọa lưu giữ. Ngoài tác dụng làm cho người nghe thuyết
trình nắm đầy đủ và chính xác nội dung thuyết trình, việc này còn có tác
dụng khắc sâu nội dung đã thuyết trình ở người nghe, giúp người nghe
ghi nhớ, dễ dàng tra cứu khi cần.
Vì vậy, tại những cơ sở giáo dục cao cấp, ngoài bảng đen, hiện nay, màn hình chiếu ảnh là một phương tiện không thể thiếu được.
Tại
giảng đường các chùa, các trường hợp học viện Phật giáo, khi thuyết
giảng Phật học, để nhằm các mục tiêu đã nói ở trên, người giảng sư nay
có thể dễ dàng sử dụng phương tiện chiếu ảnh để hỗ trợ cho bài giảng
cũng như thay thế cho việc sử dụng bảng.
Việc
dùng chiếu ảnh thay thế trình bày bảng phấn có nhiều ưu điểm. Tuy
nhiên, kỹ năng trình bày bảng đã là một kỹ năng kinh điển trong hoạt
động sư phạm. Thao tác trình bày bảng có tác dụng hỗ trợ trong kỹ năng
trình bày lời nói của người diễn giảng (thí dụ một thầy dạy toán vừa vẽ
hình vừa giảng một bài toán hình học thì tác dụng tốt đối với việc trình
bày bằng lời của thầy hơn là chiếu lên 1 hình vẽ sẵn).
3) Vị trí của người thuyết trình
Nếu chỉ thuyết trình thuần túy, thì vị trí người thuyết trình là bục giảng và bên cạnh bảng.
Nhưng
nếu có liên hệ đến kỹ năng sư phạm, thì người thầy giáo thỉnh thoảng
phải đi xuống giữa các dãy bàn học, đến tận dãy cuối cùng, để:
- Quan sát việc tiếp thu bài giảng trọn vẹn.
- Lắng nghe câu trả lời, các câu hỏi nêu ra từ bài giảng ở mọi nơi trong phòng học.
- Bao quát lớp học.
Trong
môn phương pháp giảng dạy, hồi chúng tôi học (những năm 1980), thì việc
người giảng bài chỉ ngồi một chỗ hay đứng yên ở một chỗ là một hạn chế.
Nay, trong hoạt động giáo dục Phật giáo đã có bộ môn “sư phạm hoằng pháp” thì chúng ta cần lưu ý đến vấn đề sư phạm này.
Tùy
trường hợp, người giảng sư có thể phải di chuyển, thay đổi vị trí
thuyết giảng để bao quát cử tọa, nắm sát tình hình cử tọa ở những vị trí
xa bục giảng nhất, trực diện nêu câu hỏi và nghe trả lời của cử tọa ở
cự ly ngắn như đối thoại.
Những
điều được trình bày trên đây đều là những kỹ năng sư phạm đã có từ lâu,
kể cả đèn chiếu (*), nhưng trong hoạt động giảng dạy Phật học chưa được
ứng dụng đúng mức.
Nay,
đã có khái niệm “sư phạm hoằng pháp”, thì Phật giáo chúng ta cần quan
tâm hơn đến những vấn đề của khoa học sư phạm, ứng dụng, khai thác những
ưu thế của nó phục vụ cho hoạt động hoằng pháp, sao cho kết quả đạt
được của những buổi thuyết giảng là tối ưu.