Nón
lá không xa lạ với chúng ta, ngày nay ở hải ngoại chỉ thấy nón lá xuất
hiện trên sân khấu, trình diễn nghệ thuật múa nón và áo dài duyên dáng
mềm mại kín đáo của thiếu nữ Việt Nam nổi bật bản sắc văn hoá dân tộc,
áo dài và nón lá là nét đặc thù của đàn bà Việt Nam, chắc chắn không ai
chối cãi. Nếu mặc áo đầm, hay quần tây mà đội nón không tạo được nét
đẹp riêng.
Nón dùng để che nắng mưa, có lịch sử lâu đời đã khắc trên trống đồng
Ngọc Lũ, trên thạp đồng Đào Thịnh vào khỏang 2500-3000 năm. Nón lá gần
với đời sống tạo nhiều nét bình dị, đoan trang, yêu kiều, duyên dáng và
thực tiễn với đời sống nông nghiệp, một nắng hai sương, trên đồng lúa,
bờ tre lúc nghỉ ngơi dùng nón quạt cho mát mẻ ráo mồ hôi. Nón lá ở Việt
Nam có nhiều loại khác nhau qua từng giai đoạn lịch sử:
Nón dấu: Nón có chóp nhọn của lính thú thời xa xưa
Nón Gò Găng hay nón ngựa: Sản xuất ở Bình Định làm bằng lá dứa đội khi cỡi ngựa
Nón rơm: Nón làm bằng cọng rơm ép cứng
Nón quai thao: Người miền Bắc thường dùng trong lễ hội
Nón cối: Người miền Nam rất sợ loại nón nầy xuất hiện sau năm 1975.
Nón cời: Nón rách
Nón gõ: Nón gõ làm bằng tre ghép cho lính hồi xưa
Nón lá sen: Cũng gọi là nón liên diệp
Nón thúng: Thứ nón lá tròn bầu giống cái thúng.
Nón khua: Viên đẩu nón của người hầu các quan xưa
Nón chảo: Thứ nón mo tròn lên như cái chảo úp nay ở Thai Lan còn dùng
Nón cạp: Nón xuân lôi đại dành cho người có tang
Nón bài thơ: Ở Huế thứ nón lá trắng và mỏng có lộng hình hay một vài câu thơ
v.v
Người Việt từ nông thôn cho tới thành thị đều dùng nón lá, nhưng ít
người để ý nón lá có bao nhiêu vành, đường kính rộng bao nhiêu cm? Nón
lá tuy giản dị rẻ tiền nhưng nghệ thuật làm nón cần phải khéo tay. Nghề
chằm nón không chỉ dành riêng cho phụ nữ mà cả những người đàn ông
trong gia đình cũng có thể giúp chuốt vành, lên khung nón. Với cây mác
sắc, họ chuốt từng sợi tre thành 16 nan vành một cách công phu ; sau đó
uốn thành vòng thật tròn trịa và bóng bẩy. Người phụ nữ thì chằm nức
vành . Để có được lá đẹp, họ thường chọn lá nón non vẫn giữ được màu
xanh nhẹ, ủi lá nhiều lần cho phẳng và láng. Khi xây và lợp lá, người ta
phải khéo léo sao cho khi chêm lá không bị chồng lên nhau nhiều lớp để
nón có thể thanh và mỏng. Nghề làm nón lá thường sản xuất từ miền Bắc và
miền Trung trong các làng quê sau các vụ mùa, ở các tỉnh miền Nam không
thấy người ta chằm nón?
Vật liệu làm nón tuy đơn sơ nhưng khó tìm loại lá làm nón, lá mọc ở
những vùng núi, sau nầy người ta đem giống về trồng ở vườn, có tên Du
Qui Diệp là lá làm tơi thời gian văn minh chưa phát triển, người ta dùng
loại lá nầy làm cái tơi để muà đông chống mưa gió. Một loại khác là Bồ
Qui Diệp là loại mỏng và mền hơn để làm nón lá.
Ngày nay dù đã phát triển nhưng trên những cánh đồng lúa xanh tươi
ngoài Bắc, trong những trưa hè nắng gắt, người ta còn dùng lá tơi để che
nắng, giống như con công đang xòe cánh .
Người ta chặt lá nón non còn búp, cành lá nón có hình nan quạt nhiều lá
đơn chưa xoè ra hẳn phơi khô, cột lại thành từng bó nhỏ gánh bán cho
những vùng quê có người chằm nón. Ở Quảng Nam ngày xưa vùng Bà Rén
chuyên buôn bán nón lá, từ đó phân phối đến các chợ như chợ Hội An, có
khu bán nón lá nhiều loại.
Lá non lúc khô có màu trắng xanh, người mua phải phơi lá vào sương
đêm cho lá bớt độ giòn vì khô, mở lá từ đầu tới cuồn lá, cắt bỏ phần
cuối cùng, dùng lưỡi cày cũ hay một miếng gang, đặt trên nồi than lưả
nóng đỏ, dùng cục vải nhỏ độn giống như củ hành tây, người ta đè và kéo
lá nón thẳng như một tờ giấy dài màu trắng, có nổi lên những đường gân
lá nhỏ, lựa những lá đẹp để làm phần ngoài của nón. Người ta dùng cái
khung hình giống như Kim Tự Tháp Ai Cập, có 6 cây sườn chính, khoảng
cách giống nhau để gài 16 cái vành nón tròn lớn nhỏ khác nhau lên khung.
Cái khung nầy phải do thợ chuyên môn làm kích thước đúng cỡ khi lợp lá
và chằm nón xong, tháo nón ra dễ dàng. Nón thường chỉ 16 vành tròn làm
bằng tre cật vót nhỏ đều nhau nối lại, Nón bài thơ nhẹ mỏng chỉ 2 lớp lá
trong chen hình cảnh và các câu thơ, nón thường độ bền lâu hơn dày có 3
lớp phần trong lót thêm loại lá đót, (loại cây nầy giống cây sậy, khi
trổ bông người ta lấy bông làm chổi) Chằm xong nón tháo khỏi khung, cắt
lá thừa nức miệng nón và làm quai, nón rộng đường kính thường 41 cm,
người ta phết phiá ngoài lớp mỏng sơn dầu trong suốt nước mưa không thấm
qua các lỗ kim vào bên trong. Để có được một chiếc nón, phải trải qua
15 công đoạn: từ lên rừng hái lá, rồi sấy lá, mở, ủi, chọn lá, xây độn
vành, chằm, cắt lá, nức vành, cắt chỉ …
Thời gian chưa có chỉ cước người ta dùng bẹ lá cây thuộc loại thơm
(hùm) tước lấy phần tơ ngâm nước vài ba ngày cho nát phần thịt của lá,
dùng bàn chải, chải lấy phần tơ dùng làm chỉ để chằm nón, hay dùng chỉ
đoác. Nhưng sau nầy phát triển người ta dùng cước nhỏ bằng nylon, chằm
nón có đường nét thanh nhã hơn. N ón lá đã đi vào thi ca bình dân Việt
nam
Nón em chẳng đáng mấy đồng,
Chàng mà giật lấy ra lòng chàng tham
Nón em nón bạc quai vàng
Thì em mới dám trao chàng cầm tay
Tiếc rằng vì nón quai mây
Nên em chẳng dám trao tay chàng cầm
Nón quai thao, hay nón thúng các cô gái Bắc thời xưa chưa chồng
thường dùng, ngày nay đến Hà Nội không còn thấy ai đội nón quai thao,
trên đường phố cổ trầm mặc dưới bóng cây cổ thu, thiếu nữ Hà Nội che dù
màu, đội mũ lát, đội mũ tân thời, nhưng vào thăm Văn Miếu sẽ thấy trình
diễn văn hoá, hát quan họ, các cô đều trang sức giống như thời xưa với
chiếc nón quai thao ( hình trên trong Văn Miếu)
Thuở xưa con gái sau khi lập gia đình, bổn phận làm vợ, làm mẹ, họ
chỉ chú trọng đến niềm vui tận tụy làm tròn bổn phận trong gia đình, xao
lãng những vẻ đẹp bề ngoài..
Chưa chồng nón thúng, quai thao
Chồng rồi, nón rách, quai nào thì quai
Chửa chồng, yếm thắm, đeo hoa
Chồng rồi, hai vú bỏ ra tầy giành.
Túa ống tơ ngà tha thướt gió
Vàng vàng lá lụa nắng tươi xinh
Khuôn hoa e lệ trong khuôn nón
Say mắt chàng trai tiếc gửi tình
Nhung dép cong nghiêm bước thẳng đường
Ðâu ngờ tơ nón gió vương vương
Chàng về, mắt đắm sầu xa vắng
Cả một trời xuân nhạt nắng hường
Chiếc Nón Quai Thao – Anh Thơ
Thân phận của những bóng hồng khi về chiều nhan sắc tàn phai:
Còn duyên nón cụ quai tơ
Hết duyên nón lá quai dừa cũng xong
Dáng dấp con gái Việt Nam mềm mại, dịu dàng, nếu trên đầu nghiêng
nghiêng vành nón trắng. Nụ cười, ánh mắt giấu sau vành nón ấy mới cơ hồ e
ấp, rạo rực vì những bâng khuâng .. .
Mỗi thiếu nữ đều có một cái duyên để làm say đắm người khác phái. Nhưng
tựu trung, nhan sắc của các nàng cũng không ngoài những điều đã được ca
dao truyền tụng. Có nàng đẹp nhờ mái tóc thề hay cắt ngắn, đôi chân mày
cong vòng như vầng trăng non dưới vành nón lá:
Sao em biết anh nhìn mà nghiêng nón
Chiều mùa thu mây che có nắng đâu
Nắng sẽ làm phai mái tóc xanh màu
Sẽ làm khô làn môi em dịu ướt
Còn tia mắt anh …
Có sao đâu mà em phải cúi đầu từ khước
Nếu nghiêng nón có nghĩa là từ khước
Thì mười ngón tay em sao bỗng quấn quít đan nhau
Nửa vầng má em bỗng thắm sắc hồng đào
Ðôi chân bước ..anh nghe chừng sai nhịp.
Thu Nhất Phương
Ở Huế, có nhiều vùng chằm nón nổi tiếng từ xa xưa cho đến bây giờ
như: Phú Hồ, Phước Vĩnh, Dạ Lê, Triều Sơn, Nam Phổ, Kim Long, Dương Nỗ,
Tân Mỹ, Hương Sơ, Mỹ Lam, làng Chuồn, bên dòng sông Như Ý, thuộc xã Phú
Hồ, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế làm nón bài thơ dáng thanh mảnh,
độ mỏng, màu nón nhã nhặn người ta còn cắt những bức tranh với chùa
Linh Mụ, cầu Trường Tiền, con đò trên sông Hương … và đặc biệt nhất là
vài câu thơ chất chứa tâm hồn xứ Huế
Sông Hương lắm chuyến đò ngang
Chờ anh em nhé, đừng sang một mình
Ca dao
Sao anh không về thăm quê em
Ngắm em chằm nón buổi đầu tiên
Bàn tay xây lá, tay xuyên nón
Mười sáu vành, mười sáu trăng lên
Nguyễn Khoa Điền
Tà áo dài trong trắng nhẹ nhàng bay
Nón bài thơ e lệ nép trong tay
Bích Lan
Những chiếc nón bài thơ thường trở thành vật “trang sức” của biết bao
thiếu nữ. lựa nón, lựa quai, cũng là một thú vui nên không ít người đã
kỳ công đến tận nơi làm nón để đặt cho riêng mình với dòng thơ yêu
thích. Buổi tan trường, các con đường bên sông Hương như dịu lại trong
nắng hè oi ả bởi những dáng mảnh mai với áo dài trắng, nón trắng và tóc
thề.
Dòng nước sông Hương chảy lặng lờ
Ngàn thông núi Ngự đứng như mơ
Gió cầu vương áo nàng tôn nữ
Quai lỏng nghiêng vành chiếc nón thơ
Nón bài thơ hiện hữu trên khắp nẻo đường và trở nên gần gũi, thân
quen trong cuộc sống thường nhật của phụ nữ Huế, dùng nón lá nâng hay
đựng xoài, cũng tạo nên nét đẹp mỹ miều
Anh về Bình Định ba ngày
Dặn mua chiếc nón lá dày không mua
(Ca dao)
Chợ nón Gò Găng – Phiên chợ đêm
Nón Gò Găng ở Bình Định còn gọi là nón ngựa làm bằng vành tre cật,
chuốt nhỏ như tăm, đan thành ba lớp mê sườn; bên ngoài phủ lớp lá kè
non, chằm bằng những đường chỉ tàu trắng muốt và đều đặn. Trên đỉnh chóp
được gắn chụp bạc hoặc đồi mồi có chạm trổ long-lân-qui-phụng. Quai nón
được làm bằng lụa xanh hoặc đỏ, bản rộng và đều người ta chằm một chiếc
nón ngựa phải mất cả tháng trời dày công nhọc sức. Vì vậy giá thành rất
đắt, nó chỉ dành cho những người cao sang quyền quí, những chức sắc
quan lại của triều đình. Dần dần theo nhu cầu của giới bình dân, nón
ngựa được cải biên thành ngựa đơn rồi nón buôn, nón chũm, rẻ hơn nhiều.
Các loại này đều không có chụp bạc, nó được thay bằng những tua ngũ sắc ở
chóp nón cho đẹp. Ở các vùng làm nón, ngày cưới, nhà giàu rước dâu bằng
kiệu, chàng rể thì đội nón đi ngựa; còn những nhà nghèo cũng ráng sắm
đôi nón ngựa cho cô dâu chú rể đội đi trong ngày cưới. Vậy nên có câu ca
dao:
Cưới nàng đôi nón Gò Găng
Xấp lãnh An Thái, một khăn trầu nguồn
Ngày nay các cô gái làm nón hầu như không còn giữ được phương pháp làm
nón ngựa nữa. Họ quen với công đoạn nhanh, giản tiện và dễ tiêu thụ của
chiếc nón trắng mảnh mai – một sản phẩm của quá trình cải cách lâu dài.
Ðể làm loại nón này phải qua nhiều công đoạn. Vấn sườn, lợp lá, chèn lá,
chằm và nức. Việc làm lá đòi hỏi nhiều tính tỉ mỉ và kinh nghiệm lâu
năm
Nghề nón là thuộc thị trấn Gò Găng, Nhơn Thành – An Nhơn. Nơi đây có một
chợ nón lớn họp thường ngày từ 3-4 giờ sáng. Cứ hết một đợt làm được
25-30 chiếc thì bà con các vùng phụ cận lại mang nón đến bán và mua sắm
vật liệu cho đợt sau. mỗi tháng Gò Găng có thể cung cấp cho cả nước
50.000 chiếc nón. Gần đây nón Gò Găng còn được xuất khẩu sang các nước
láng giềng như Trung Quốc, Lào, Cam-pu-chia dưới dạng cải biên cho hợp
với xứ người. Như vậy, từ vùng núi cao nguyên mưa nguồn gió dữ cho đến
các miệt vườn miền Nam.
Nhớ nón Gò Găng
Vầng trăng Đập Đá
Sông dài sóng cả
Người quân tử,
Khăn điều vắt vai..
Đời sống văn minh, phát triển nhưng nón lá Việt nam vẫn thuần túy nguyên
hình của nó. ở bất cứ nơi đâu, từ rừng sâu hẻo lánh, trên đồng ruộng
mênh mông, dọc theo sông dài biển cả, đều thấy chiếc nón lá ngàn đời
không đổi thay.
Và thi sĩ Quách Tấn có bài thơ , có viết về nón ngựa:
Nón ngựa Gò găng
Bún Song thần An thái
Lụa đậu từ Nhơn Ngãi
Xoài tượng chín Hưng Long …
Mặc ai tham táo thích hồng,
Lòng quê vẫn giữ một lòng trước sau
.” (Quách Tấn)
Nguyễn Quý Đại