Đất
nước lúc gian nguy đã sinh ra Trần Nhân Tông, và con người vĩ đại ấy đã
làm lộng lẫy lịch sử chính trị, lịch sử vệ quốc, lịch sử văn hoá và
lịch sử Phật Giáo Việt Nam. Sự hoà nhập của vị đế vương và bậc tu hành, hoá thân thành biểu tượng Tâm và Tuệ.
Là
vị vua, Đức Trần Nhân Tông để lại bài học cho tất cả những ai có vị trí
cầm quyền, rằng quyền lực mạnh mẽ nhất là quyền lực từ nhân tâm, lớn
lên do nhân tâm, được vận hành bởi nhân tâm và phục vụ cho sự bền vững
của nhân tâm trong xã hội. Là bậc tu hành, Đức Trần Nhân Tông để lại
minh chứng rằng Đạo là từ đời, gắn với đời, không xa lánh mà vì đời.
Chắc
chắn niềm âu lo lớn nhất của Đức Trần Nhân Tông cũng là sao cho “Nước
non ngàn thuở vững âu vàng”. Vị vua đã tập hợp sức mạnh của toàn dân để
bảo vệ đất nước qua các cuộc binh đao. Nhưng Người quá hiểu rằng âu vàng
có thể giữ được qua khói lửa, nhưng thời bình nếu không đặt trên nền
tảng vững vàng thì cũng có thể có ngày xô lệch nghiêng ngả.
Bởi
vậy Người dành nửa phần đời sau để xây đắp một nền tảng tinh thần cho
toàn dân tộc. Lịch sử hàng ngàn năm, nhưng tầm nhìn ấy mấy người có
được. Trên 7 thế kỷ đã trôi qua, và còn nhiều thế kỷ nữa sẽ trôi qua,
càng cho thấy vóc dáng tinh thần
khổng lồ của Đức Trần Nhân Tông, vóc dáng không chỉ tầm dân tộc mà còn
tầm nhân loại. Tôi tin rằng sẽ còn có nhiều Viện Trần Nhân Tông được mở
ra ở những trung tâm nghiên cứu danh tiếng nhất trên thế giới.
Rất
khó hết ngạc nhiên về tầm vóc ấy. Nhưng đâu là cái lõi tư duy tạo ra
tầm vóc của con người vĩ đại Trần Nhân Tông?. Phải chăng có thể hiểu
được điều rất khó ấy qua một câu chuyện vô cùng giản dị, chỉ qua hai câu
nói của Đức Phật Hoàng. Một lần giảng pháp, các tăng đã hỏi Trần
Nhân Tông ba câu : Thế nào là Phật? Thế nào là Pháp? Thế nào là Tăng?.
Và Trần Nhân Tông đã cho cả ba câu hỏi ấy một câu trả lời: “Hiểu theo
lối trước là chẳng phải”. Trần Nhân Tông còn nói thêm rằng khi nhắc lại
lời người xưa, thì: “Một lần nêu ra một lần mới”.
Quả
thật ngay thời Trần Triều, hoạ hay phúc cũng luôn biến đổi. Đến ba lần
Nguyên Mông xâm lược thì mỗi lần cũng khác nhau. Tổ Quốc, Dân tộc mãi
trường tồn, nhưng nhân dân và đất nước mỗi thời- mà cũng có thể nói mỗi
ngày - mỗi khác. Lo cho dân, cho nước thì không thể theo lối cũ. Đã ở vị
trí trị quốc thì phải có nền tư tưởng và chánh kiến. Nhưng nền tư tưởng
ấy người thay trời hành đạo cũng phải luôn không nhìn nhận rập“theo lối
trước”.
Kể
cả những di sản, những nguyên lý vĩ đại nhất cũng không thể giữ và hiểu
ở dạng nhất thành bất biến, mà phải luôn hiểu trong hơi thở của thực tế
mới (“Một lần nêu ra một lần mới”). Phải thấu cảm vận động của đất
trời, xã hội mới có tầm nhìn như vậy. Có được vị vua như thế là phúc lớn
cho bất cứ dân tộc nào ở bất cứ thời nào.
Dưới
tượng Đức Phật Hoàng, tôi hoà vào với dòng người, từ Tây Bắc xuống, và
rất nhiều từ phía Nam ra. Những tiếng nói cười rất khác nhau về âm sắc,
nhưng giống nhau về niềm hân hoan và sự chân tình khi chiêm bái bức
tượng đồng cao nhất và lớn nhất Việt Nam cho đến lúc này.
Đã
từng kinh ngạc trước chùa Đồng, tôi càng kinh ngạc trước công sức bỏ ra
để dựng tượng đồng kỳ vĩ, nếu dựng nơi đất bằng đã là kỳ công, đây lại ở điểm
cao cả ngàn mét so với mặt biển. Tất cả làm được do công đức cúng
dường, cũng còn do sự lao tâm khổ tứ của những người ấp ủ ý tưởng xây
dựng công trình này, trước hết là các vị Tăng trong Giáo Hội Phật Giáo
tỉnh Quảng Ninh. Vẫn muốn tìm hiểu, tôi đã cố tìm gặp Thượng toạ Thích
Thanh Quyết nhưng chưa gặp được vì Thượng toạ rất bận bịu chuẩn bị cho
đại lễ.
Từ
xưa đến nay, lúc thịnh vượng hay khi khó khăn, chẳng bao giờ người dân
không góp công góp của xây chùa, đúc chuông, dựng tượng. Đó là cách
người dân đầu tư cho tương lai, cho ngọn nguồn tinh thần nuôi nhiều thế
hệ sau. Nếu nói đầu tư vật chất đơn thuần, ai sang Roma, sẽ hiểu người Ý
bây giờ vẫn đang được hưởng nguồn lợi từ cha ông xa xưa để lại.
Vẫn
biết Phật tại tâm. Vẫn biết Đức Trần Nhân Tông, sinh thời ngụ trong am
nhỏ trên đỉnh hoang vu, không cần đến bất cứ hình thức tôn vinh nào.
Nhưng lòng dân muốn gửi một thông điệp lớn qua một bức tượng lớn. Đến
với di sản Trần Nhân Tông mỗi người một khác. Có người qua thu nạp những
hiểu biết sâu sắc về tinh thần, tư tưởng của Phật Hoàng. Cũng có người
từ lòng yêu trọng thành kính tự nhiên, đến với nơi non thiêng và những
công trình kỳ vỹ, để rồi sau đó qua Tượng mà gần và hiểu Ý hơn.
Mai
sau chắc chắn Chùa Đồng, tượng đài Trần Nhân Tông cùng quần thể di tích
cũ và thiên nhiên Yên Tử sẽ là nơi đến của nhiều triệu người trong,
ngoài nước. Không chỉ là chuyện danh lam thắng cảnh, mà còn là cách
hoằng dương những giá trị vĩnh cửu của con người và lịch sử đất nước. Sẽ
có bao người Việt đến đây, nhìn, suy ngẫm, nạp vào mình nguồn năng
lượng mới để sống tốt hơn. Sẽ có bao bạn bè đến đây như khách du lịch,
nhưng rời đây với cảm nhận của người bạn về chiều sâu của lịch sử Việt Nam.
Công đức này, từ Tăng ni, thiện nam tín nữ, là vô lượng.
Trần Đăng Tuấn