ông Frédéric Lenoir cũng là một nhà xã hội học
và chuyên gia về tôn giáo, chủ bút tập san Le Monde des Religions thuộc
tổ hợp báo chí Le Monde, một tổ hợp báo chí lâu đời và uy tín của nước
Pháp. Luận án tiến sĩ của ông về đề tài Phật giáo tại Pháp và Âu châu,
đã được nhà xuất bản Fayard ấn hành năm 1999 thành hai tập sách tổng
cộng gần 900 trang. Ngoài ra ông cũng đã xuất bản khoảng 30 quyển sách
khác về nhiều chủ đề tôn giáo. Bài báo dưới đây của ông gồm ba phần :
- Phần 1 : Phật giáo và triết học phương Tây, do triết gia Michel Hulin viết
- Phần 2 : Phật giáo và phân tâm học, do bác sĩ Claude Zandman viết
- Phần 3 : Bài phỏng vấn một khoa học gia về thần kinh học rất nổi
tiếng là Francisco Verala, một đệ tử yêu quý của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma. Bài
phỏng vấn do chính Frédéric Lenoir thực hiện.
1- MỘT NỀN TRIẾT HỌC CHO THỜI ĐẠI CHÚNG TA - Giáo sư Michel Hulin *
Có
lẽ nên sớm đặt trọng tâm của triết học Phật giáo vào trung tâm bối cảnh
hết sức nguy kịch của nền triết học Tây phương. Từ hai thế kỷ nay các
phạm trù triết học chính yếu dùng để xây dựng cả một nền triết học Tây
phương đã bị sụp đổ tan tành. Những gì mà triết gia Kant gọi là ba ý
niệm siêu nhiên đã hoàn toàn bị nghiền nát, đó là : a) chủ thể là một
cái tôi mang tính cách thực thể ; b) thế giới là một sự sắp xếp các hiện
tượng qua thời gian và không gian ; c) Thượng đế là ý chí an bài của
tổng thể thực tại. Tự mình đã gặm mòn lấy cội rễ của chính mình cho nên
nền triết học Tây phương ngày nay đang lâm vào một tình trạng khốn quẫn.
Nền triết học Tây phương cho thấy nhiều mặc cảm và thua kém trước tính
cách xác thực của các ngành khoa học, vì thế mà nền triết học đó phải
đành giao phó mọi cố gắng tìm hiểu thế giới này trong tay của khoa học.
Nền triết học ấy một mặt hướng về một thứ chủ nghĩa hư vô, và một mặt
khác thì lại an phận với những chủ đề thật khiêm tốn chỉ mang tính cách
kỹ thuật, chẳng hạn như việc phân tích các loại ngôn ngữ.
Đó là
một trong những lý do trong số các lý do khác nữa đã góp phần giúp cho
triết học Phật giáo thu hút cả thế giới phương Tây. Thật vậy, Phật giáo
thoát khỏi mọi chỉ trích có tính cách tỉnh ngộ đại loại như vừa kể trên
đây : Phật giáo không quan niệm có một chủ thể mang tính cách thực thể
(con người luôn luôn biến đổi và trở thành), Phật giáo tự đặt mình vào
kích thước vô tận của thời gian và không gian ; Phật giáo hiện hữu không
cần đến một vị Trời sáng tạo. Hơn nữa, Phật giáo không hề có tham vọng
mang lại những giải thích toàn bộ về tổng thể của thế giới này. Trên một
phương diện nào đó, Phật giáo đã giúp đặt trở lại câu hỏi triết học
liên quan trực tiếp đến khả năng hiểu biết và sự giác ngộ, đấy là các
vấn đề mà nền triết học Tây phương phải bó tay ».
*Giáo sư
Michel Hulin, sinh năm 1936, hiện nay là một triết gia và giáo sư chuyên
về triết học Ấn độ, ông giảng dạy tại đại học Sorbonne Paris. Tuy nhiên
trước kia ông cũng từng là một thạc sĩ vật lý học, nghiên cứu về vật lý
thể rắn, hóa học lý thuyết, toán học v.v. tham gia với nhiều khoa học
gia nghiên cứu nhiều lãnh vực và chủ đề khoa học khác nhau. Ông cũng
từng làm giám đốc Bảo tàng viện các khám phá khoa học (Palais de la
Découverte) suốt trong năm năm. Ông xuất thân từ các trường nổi tiếng
nhất của Pháp như Charlemagne, Ecole Normale Supérieur... (Hoang Phong
ghi chú)
2- ĐỨC PHẬT MANG NHIỀU HOÀI BÃO HƠN CẢ FREUD – Claude Zandman*
Nhất
định điểm tương đồng giữa phân tâm học và Phật giáo trước hết phải là
khía cạnh tâm lý học và tính cách thực dụng của Phật giáo xem con người
là một sinh linh đang gánh chịu khổ đau. Thật rõ ràng Đức Phật là một vị
thầy thuốc chữa chạy cho con người, giống như Freud. Tuy nhiên những dự
kiến của họ không giống nhau : Freud nhắm vào việc làm giảm bớt khổ đau
cho con người, giải thoát con người khỏi những chứng bệnh bấn loạn thần
kinh, nhưng không đề cập gì đến những nỗi lo sợ của sự sinh tồn. Đức
Phật mang những kỳ vọng lớn lao hơn thế rất nhiều : Ngài thuyết giảng
con đường tự giải thoát khỏi tất cả mọi khổ đau bằng cách buông xả. Nhà
phân tâm học tìm cách thăm dò xem một cá thể đã thiết đặt những gì dùng
làm phương tiện lẩn tránh những lo sợ trong sự sống, và từ đó sẽ áp dụng
các cách tránh né hay chuyển dịch để giúp họ, và cũng thật oái oăm
chính đó cũng lại là một cách khác gây ra khổ đau. Phật giáo thì khác
hẳn, không quan tâm đến những bí quyết ngoắt ngoéo để chữa chạy các
chứng bệnh rối loạn thần kinh : Phật giáo khuyên hãy sử dụng tức khắc
việc thiền định như một phương pháp để tự vượt thoát mọi khổ đau.
Qua
sự kiện đó Phật giáo đã chứng minh cho thấy tại sao lại xảy ra những bế
tắc cho người Tây phương. Sở dĩ lâm vào bế tắc là vì người Tây phương
nghĩ rằng họ có thể tiết kiệm được khỏi cần phải khám phá thêm một cái
gì khác vừa tốn kém lại vừa quá điên đầu. Tuy nhiên những ai thực thi
theo phương pháp của Phật giáo – như một cách để tự lẩn tránh mình và
quá khứ của mình – để đi tìm một sự « sảng khoái » thì họ cũng sẽ giống
như những người tập sự trong các giáo phái ngoại lai mà thôi. Nhất định
là số người này đông lắm, bởi vì thiền định dưới hình thức ấu trĩ trong
mục đích tìm kiếm sự an bình và sáng suốt là một thứ gì vô cùng hấp dẫn,
dù cho các vị thầy đích thực đã từng giảng rằng thiền định phải là một
cách mở cửa để hướng vào nội tâm. Mở cửa vào nội tâm đòi hỏi chính mình
phải loại bỏ tất cả những xúc cảm cực mạnh lưu lại những vết hằn thật
sâu và đã bị đè nén từ những ngày đầu trong cuộc sống của chính mình.
Phương pháp thực thi thiền dịnh đó đòi hỏi thật nhiều can đảm và phải ý
thức được cái giá phải trả. Phương pháp ấy đôi khi tỏ ra khá khó cho
những người Tây phương, vì trước đây họ chưa hề nghĩ đến việc tự điều
trị những bấn loạn thần kinh cơ bản cho chính mình. Dù sao đi nữa, nếu
tìm cách tránh né những khó khăn đó thì đấy chỉ là cách thu hẹp giáo lý
của Phật giáo và đơn giản biến giáo lý ấy thành một sự quyến rũ tâm
thần, không hơn không kém ».
* Jean-Claude Zandman là một bác sĩ
tâm thần và phân tâm học, hiện có phòng mạch tại vùng Haute Savoie
(Pháp), ông tu tập thiền định được khoảng 10 năm trước khi trả lời những
câu hỏi trên đây của ông Frédéric Lenoir.
3- KHOA HỌC VÀ PHẬT GIÁO : MỘT SỰ KẾT HỢP THÀNH CÔNG MỸ MÃN - Bài phỏng vấn ông Francisco Varela *
Tạp
chí L’Express: Einstein đã từng bảo rằng Phật giáo là tôn giáo duy nhất
phù hợp với nền khoa học tân tiến. Ông có chia sẻ quan điểm đó hay
không ?
- Nhất định là có. Từ mười năm nay, cùng chung với các
nhà khoa học khác trên thế giới tôi vẫn thường xuyên gặp gỡ Đức Đạt-Lai
Lạt-Ma, chúng tôi chưa hề vấp phải bất cứ một khó khăn nhỏ nhoi nào trên
phương diện phương pháp học, vì chính Phật giáo đã sử dụng một phương
pháp tiếp cận hết sức thực tế, dựa vào sự quan sát và thực nghiệm trong
cuộc sống. Hơn nữa, khoa học và Phật giáo cả hai đều có một địa bàn hoạt
động giống nhau, xoay quanh các khái niệm liên quan đến quy luật tương
liên (lý duyên khởi) và hiện tượng vô thường. Bất cứ một hiện tượng nào
cũng đều được xem như là một nút thắt trong hệ thống của nguyên nhân hậu
quả, vì thế một hiện tượng không thể nào tự nó mang một thực thể riêng
biệt được. Sự quán thấy ấy đi ngược lại với tất cả các tôn giáo lớn khác
mang tính cách « thần khải » xác định có sự hiện hữu của một thực thể
bất biến (Trời, linh hồn) thoát khỏi quy luật nhân duyên.
- Trong lãnh vực nào sự so sánh giữa khoa học và Phật giáo tỏ ra nổi bật nhất ?
-
Phật giáo quan tâm trước hết đến sự hiện hữu của con người. Vì thế phải
đi tìm sự tương đồng trong các ngành khoa học liên quan đến sự quan sát
thân xác và tâm thức của con người. Đặc biệt nhất là các ngành thần
kinh học và khoa nhận thức học, có nghĩa là các ngành nghiên cứu khoa
học hiện đại liên quan đến các hiện tượng tâm thần (sự nhận biết, trí
nhớ, các giấc mơ, xúc cảm, v.v...), các ngành khoa học này hiện nay đang
trên đà phát triển. Người Tây phương đạt được nhiều thành quả đáng kể
trong lãnh vực nghiên cứu về quy luật nguyên nhân và hậu quả đối với các
hiện tượng thiên nhiên, tuy nhiên các vị thầy Phật giáo còn tỏ ra tài
giỏi hơn họ rất nhiều, nhất là trong lãnh vực những hiện tượng tâm thần.
Các người tu tập thiền định đạt được các cấp bậc cao là những chuyên
gia hiểu biết thấu đáo các sinh hoạt của tâm thức con người. Trong lãnh
vực chính xác này, Phật giáo đặc biệt quan tâm đến những thành quả do
nền khoa học hiện đại đã thực hiện được.
- Người Tây phương có thể rút tỉa được những ứng dụng nào ?
-
Có hai khía cạnh khác nhau. Trước hết là cách luyện tập theo các kỹ
thuật của Phật giáo sẽ góp phần tích cực cho việc kháo cứu (chẳng hạn
như làm giảm xuống một cách đáng kể tỷ lệ dị dạng của của các thể dạng
tâm thần được đem ra nghiên cứu) và từ đó có thể đưa ra các quy luật
liên quan đến sự vận hành của tâm thức. Tuy nhiên còn rất nhiều ứng dụng
khác nữa. Chẳng hạn một trong những khó khăn chính yếu của những người
đảm trách việc giáo dục là tập cho trẻ em học hành, tức là tập cho các
em biết chăm chú. Chính Phật giáo đã hoàn chỉnh nhiều phương pháp cụ thể
giúp trau dồi sự tỉnh thức. Các kỹ thuật này cũng trợ giúp một cách rất
hiệu quả những người bị một số bệnh tật nào đó, chẳng hạn như cảm thấy
đau nhức kinh niên. Tây phương đã tỏ ra bất lực trong việc tìm hiểu và
khắc phục một số các hiện tượng tâm thần và xúc cảm, vì lý do là Tây
phương chỉ biết quan tâm tìm hiểu và khắc phục những hiện tượng bên
ngoài con người. Trái lại, Phật giáo là một khoa học đích thực của nội
tâm.
* Francesco Verala (1946-2001) : người gốc Chili, tốt nghiệp
tiến sĩ tại trường Đại học Harward. Ông từng giữ chức vị giám đốc khảo
cứu thuộc Trung Tâm Quốc gia Khoa học (CNRS) của Pháp và là người đầu
đàn của nhóm khoa học gia nghiên cứu về Tâm lý sinh học về các chức năng
nhận thức (Psychophysiologie cognitive) tại bệnh viện Pitié-Salpêtrière
(Paris). Ông cũng từng tham gia chương trình nghiên cứu về Khoa nhận
thực luận (Epistémologie) của trường Bách khoa Paris (Ecole
Polythecnique). Ông cũng từng là một thành viên rất tích cực trong hội
Tâm Linh và Sự Sống (Mind and Life) thường xuyên họp với Đức Đạt-Lai
Lạt-Ma và các khoa học gia nổi tiếng khác trên thế giới để tham gia vào
các lãnh vực nghiên cứu kết hợp giữa khoa học và Phật giáo.
Ông
là một trong những đệ tử yêu quý của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma. Vào tháng 5 năm
2001, bất thần ông lâm bệnh nặng, Đức Đạt-Lai Lạt-Ma hay tin liền cho
thu băng vidéo những lời giảng và lời khuyên của Ngài để gởi cấp tốc
sang Paris cho Francisco Verala xem và nghe trước khi nhắm mắt.
Francisco Verala để lại một gia tài khảo cứu rất quan trọng và rất nhiều
trước tác về khoa học, trong số này có hai tập sách viết về Khoa học
nhận thức về Phật giáo và một số sách viết chung với Đức Đạt-Lai Lạt-Ma
về Khoa học tâm linh v.v...
Frédéric Lenoir - Hoang Phong dịch