Đức Phật biết là đúng thời nên ngài thuyết một
thời pháp nói về sự chết của các loài hữu tình.
Đầu tiên, đức Phật cảm hứng ngữ thốt lên một
bài kệ thơ dài nói về sự chết:
“- Ôi!
Từ khi nẩy mầm li ti một sự sống
Nó rất
nhỏ nằm trên đầu cây kim
Tượng
hình trong thai bào
Là nó,
Là một
chúng sanh
Cứ thế
lớn lên
Cứ thế
nó tiến dần về phía trước
Không
thể trở lại
Chẳng
thể quay lui
Dù chỉ
một lần
Trong
khi nó chảy trôi như vậy
Nó tiến
dần đến cõi của sự chết
Giống
như dòng sông
Nó nhỏ
dần, hẹp dần rồi cạn dần
Dưới sức
nóng thiêu đốt của hỏa đại
Như trái
cây xanh kia
Chín dần
rồi rơi rụng
Như
chiếc bình đất nung kia
Búa thời
gian đập vỡ
Như giọt
sương ban mai kia
Chợt tan
biến dưới ánh nắng mặt trời
Thế là
ngày và đêm
Lặng lẽ
trôi qua
Mạng
sống của các loài hữu tình
Tàn dần,
lụn dần cho đến khi diệt mất
Nó mong
manh, nó hư ảo
Như bọt
bể, như bóng nước
Tụ rồi
tan ngay!
Hiện rồi
mất ngay!
Ôi! Ai
có biết chăng
Khi vừa
sinh ra
Cái sống
đi kèm với cái chết
Trên
sinh mệnh của các loài hữu tình
Có một
tên bạo chúa
Có một
tên sát nhân
Chực sẵn
với cây kiếm sắc
Chờ sẵn
với lưỡi gươm bén
Nó kề
bên cổ
Không
biết sẽ tước đoạt mạng sống lúc nào
Như đức
vua kia
Oanh
oanh liệt liệt
Chinh
phục cả quả đất
Nhưng
thời khắc cuối cùng của đời người
Mọi
thành tựu và mọi vinh quang
Giá trị
xem ra không bằng nửa hạt giẻ
Xác thân
và hơi thở héo tàn
Thần
chết lạnh lùng cười khẩy mang đi!
Ôi! Loài
người có biết chăng
Sức khỏe
bị chấm dứt bằng tật bệnh
Tuổi trẻ
bị tấn công bằng già nua
Sự sống
bị xâm lăng bởi sự chết
Đấy là
định luật tất yếu
Tất cả
mạng sống có được từ ‘sinh’
Rồi bị
ám ảnh bởi ‘già’
Rồi bị
đoanh vây bởi ‘bệnh’
Và cuối
cùng là cái ‘chết’ đánh gục
Ví như
núi đá khổng lồ kia
Lớn rộng
tận trời cao
Nó tiến
đến từ mọi phía
Nghiền
nát mọi sinh loài
Cũng
tương tự như thế
Già chết
nó nghiền nát
Sinh
mệnh bà-la-môn
Sinh
mệnh sát-đế-lỵ
Sinh
mệnh các chiến sĩ
Sinh
mệnh những thương gia
Sinh
mệnh các thợ thuyền
Sinh
mệnh những tiện dân
Sinh
mệnh các nô lệ
Người
hốt phân, kẻ nạo ống cống
Nó không
chừa một ai
Và cho
dẫu tượng quân, mã quân hùng mạnh
Và cho
dẫu bộ quân lớp lớp hàng hàng
Và cho
dẫu đại ảo gia, chú thuật gia
Hay dẫu
đem tất cả tài sản thế gian gộp lại
Vẫn bất
lực trước tử thần
Trong
các loại phá sản
Sự chết
là đệ nhất phá sản
Phá sản
mọi sự nghiệp
Phá sản
tất thảy mọi thành công ở trên đời
Phá sản
mọi ước mơ và mọi ảo tưởng
Phá sản
cho đến tận cùng hư vô và hủy diệt
Ôi! Loài
người có biết chăng
Cho dẫu
những người có danh vọng lớn
Có công
đức lớn
Có sức
mạnh lớn
Có thần
thông lớn
Có trí
tuệ lớn
Có đồ
chúng lớn
Có tài
sản lớn
Có uy
lực lớn
Thế mà,
cuối cùng
Cái chết
nó tóm lấy hết
Nó quẳng
tất thảy vào vực thẳm Rāhu
Cái chết
nó gặm vào hàm
Như nai tơ non trong hàm sư tử
Như chú
ếch con nằm trong miệng rắn
Cho dẫu
như Moggallāna
Là đệ
nhất thần thông
Cho dẫu
như Sāriputta
Có trí
tuệ siêu quần
Cũng đầu
hàng, bất lực
Trước
sức mạnh tử thần!
Và cho dẫu là Như Lai
Khi còn mang vác sắc thân này
Vẫn bị chi phối bởi uy lực của thần chết
Sắc thân ba hai quý tướng
Và tám mươi vẻ đẹp
Được trang bị viên mãn giới uẩn
Viên mãn định uẩn
Viên mãn tuệ uẩn
Viên mãn giải thoát uẩn
Viên mãn giải thoát tri kiến uẩn
Viên mãn về danh xưng
Viên mãn về công đức
Viên mãn về hùng lực
Viên mãn về thần thông
Chẳng có ai sánh bằng
Nhưng chẳng thể nào né tránh
Trận mưa lũ thình lình
Của sự chết ập đến
Như một đống lửa lớn
Bị dập tắt bởi một trận dông
Chẳng một ai
trốn được!
Chẳng một ai thoát được!”
Bài kệ thơ trầm hùng như
sóng biển, như âm vọng đại ngàn rì rào lướt qua không gian điện thờ Aggāḷava làm
cho hội chúng tỳ-khưu cùng nam nữ cư sĩ như nín thở. Sự chết như hiển hiện trước
tầm mắt mọi người bằng lưỡi hái cong cong sắc bén, rực lửa của tử thần đang chực
sẵn, đang hờm sẵn ở đâu đó trong bóng tối, bên ngưỡng cửa, bên chiếc giường của
già bệnh và ngay cả ở nơi tuổi thanh xuân!
Đức Phật lại tiếp tục bài
giảng:
- Như vậy, mỗi người phải
biết suy niệm, quán tưởng về sự chết. Cái thân thể của chúng sanh nó già, nó
bệnh, nó chết trong từng khoảnh khắc.
Hãy xem đây, và hãy nhìn
cho ra:
“- Hiện nó là nơi
cộng cư, đồng trú
Của “tám mươi”(1) gia đình vi trùng
Nó bám vào da, lấy da làm thức ăn
Nó trú vào thịt, rúc thịt làm món ngon
Nó dính vào gân, moi gân làm bữa nhậu
Nó bám vào xương, rỉa xương làm thức nhắm
Nó bám vào tủy, mút tủy làm thực phẩm
Chúng ăn rồi chúng ỉa, chúng đái
Chúng bài tiết dơ uế
Rồi chúng làm tình
Rồi chúng sinh con đẻ cái
Rồi chúng bệnh, chúng già và chúng chết
Vậy, cái thân này là nhà bảo sanh
Là viện dưỡng thương
Đồng thời là chỗ tiểu tiện, đại tiện
Mà cũng là nghĩa địa của chúng
Và khi chúng bất hòa, nổi loạn
Khi chúng chiến tranh, dịch bệnh
Thì cái thân này là bãi chiến trường
Là cái hầm xác thối
Làm cho cơ thể nầy
Hoặc xanh xao, hư mòn, tiều tụy
Hoặc suy kiệt và đi đến cái chết!
Còn nữa, cái thân này
không những san sẻ, cộng cư với tám mươi gia đình vi trùng mà còn chia nhau gánh
chịu trăm ngàn thứ bệnh nội thương từ tim, từ phổi, từ gan, từ não, từ tim, từ
lá lách, từ mật, từ bao tử, từ máu, từ ruột non, ruột già nữa. Nó lại còn bị mọi
sự chết chóc từ bên ngoài đem đến như bởi rắn, bởi hổ, bởi báo, bởi bò cạp, bởi
nước, bởi lửa, bởi mũi tên, bởi đao và bởi kiếm nữa.
Như một mục tiêu được
dựng ở ngã tư đường sẵn sàng nhận chịu những mũi tên nhọn, cọc nhọn, chĩa nhọn,
đá sỏi từ bốn phương, tám hướng tấn công; cũng tương tự thế, trăm trăm ngàn ngàn
tai ươn, hoạn nạn, bệnh tật, ốm đau, chết chóc luôn luôn chực chờ bổ xuống, phủ
xuống cái thân này một cách khắc nghiệt, vô cảm, lạnh lùng!
Này đại chúng! Suy đi,
gẫm lại từ sự thật như vậy, thì sự chết không biết sẽ đến với ta lúc nào. Khi
ngày tàn, đêm xuống, sớm đến, chiều đi, một hành giả quán tưởng về sự chết có
thể suy niệm như sau: “Ta có thể bị chết
do rắn, rết, bò cạp, độc trùng tức khắc bây giờ đây. Ta có thể bị chết do té
ngã, dập đầu vào đá tức khắc bây giờ đây. Ta có thể bị chết do trúng thực, trúng
gió, bởi mật, bởi đàm, bởi nghẽn tắt các vi mao tĩnh mạch... tức khắc bây giờ
đây!”
Còn nữa, này đại chúng!
Như vậy, sự sống vốn rất mong manh và bất lực trước tử thần!
Nó gắn liền vào hơi thở, gắn liền với bốn cử động đi đứng nằm ngồi, gắn liền với
nóng và lạnh, gắn liền với tứ đại, gắn liền với thức ăn, vật uống.
Thế nào là sự sống được
gắn liền vào hơi thở? Sự sống chỉ được duy trì, được tiếp diễn khi hơi thở vô,
hơi thở ra được liên tục và đều đặn. Nếu hơi gió đi vào mà không đi ra hoặc hơi
gió đi ra mà không đi vào thì sự chết đã đến gõ cửa rồi.
Thế nào là sự sống được
gắn liền với bốn cử động đi, đứng, nằm, ngồi? Sự sống chỉ được duy trì và tiếp
diễn khi đi đứng nằm ngồi được vận hành suôn sẻ, trôi chảy; nếu một trong bốn
oai nghi ấy bị ngưng đọng, ngưng trệ thì sự sống đã bị tê liệt.
Thế nào là sự sống được
gắn liền với nóng và lạnh? Sự sống chỉ được duy trì, tiếp diễn khi thủy hỏa quân
bình, đều hòa; nếu cơ thể lạnh quá độ hoặc nóng quá độ thì sự chết đã kề bên
lưng.
Thế nào là sự sống được
gắn liền với tứ đại? Sự sống chỉ được duy trì và tiếp diễn khi đất, nước, lửa,
gió cân phân, đều hòa. Nếu một trong bốn đại rối loạn, tăng thịnh hơn ba đại kia
thì sự chết đã được báo hiệu.
Và cuối cùng, tương tự
vậy là thức ăn, vật uống. Thức ăn vật uống có thể duy trì sự sống mà cũng có thể
hủy diệt sự sống. Ăn uống chừng mực, vừa phải, có tiết độ thì cái thân sẽ vô
bệnh, mạnh khỏe; nếu khẩu tạp vô độ, bạ ăn, bậy uống thì bệnh tật, ốm đau đi
liền với cái chết là việc đã từng xảy ra trước mắt cho rất nhiều người.
Này đại chúng! Sự chết
vốn không ai có thể tiên lường, suy đoán hay xác định được. Tại sao?
Vì sự chết có năm vô
tướng, bất định: “Đấy là thọ mạng vô tướng, bất định; bệnh tật
vô tướng, bất định; thời gian vô tướng, bất định; không gian vô tướng, bất định;
và thứ năm là số phận vô tướng, bất định!”
Thế nào là thọ mạng không
có tướng và không có thể định được? Vì không ai có thể biết là mình sẽ sống bao
lâu! Vì có hữu tình chết từ trong thai bào, trong giai đoạn còn một tuần, hai
tuần; giai đoạn một tháng, hai tháng hay giai đoạn vừa ra khỏi bụng mẹ. Có người
chết lúc mười tuổi, hai mươi tuổi, năm mươi tuổi hoặc sau năm mươi tuổi...
Thế nào là bệnh tật không
có tướng và không có thể định được? Vì không ai có thể biết là mình sẽ chết về
bệnh này hay chết về bệnh kia? Bị chết về nhiều thứ bệnh hay chết chỉ một, vài
bệnh?
Thế nào là thời gian
không có tướng và không thể định được? Vì không ai có thể biết mình chết lúc này
hay lúc khác? Thời gian này hay thời gian kia? Buổi sáng, buổi trưa, buổi chiều
hay buổi tối?
Thế nào là không gian
không có tướng và không có thể định được? Vì không ai có thể biết khi mình chết,
cái thây sẽ nằm ở chỗ nào, xứ nào, chốn nào, trên giường, trên đất, trong làng,
ngoài làng, dưới ruộng, trên núi, trong hang động, dưới cội cây hay tại tư gia,
thị phường?
Và cuối cùng, là số phận,
chỗ lai sinh cũng không có tướng và cũng không định được như thế! Vì ai là người
biết được kẻ chết ở nơi này sẽ sinh lại ở nơi nào? Có người chết cõi người nhưng
sau đó hóa sanh cõi trời, sinh lại cõi người hay lưu lạc vào bốn đường khổ? Sự
vần xoay, trầm luân, lui tới ba cõi, sáu đường của các loài hữu tình quả thật là
mù mờ, bấp bênh và vô định vậy.
Này đại chúng tỳ-khưu và
cận sự nam nữ hai hàng!
Sự chết vô hình, vô ảnh,
vô tướng, bấp bênh, vô định như vậy nên mọi người nên hằng suy niệm và quán
tưởng về sự chết để lợi lạc và an vui lâu dài cho mình.
Giới hạn đời người là một
trăm năm chăng? Có chắc chắn như thế không? Vì sự chết không biết nó sẽ đến thăm
viếng lúc nào nên phải thường xuyên thực hành ba nghiệp lành, tốt; lìa xa ba
nghiệp xấu ác để chuẩn bị hành trang, tư lương cho đời mình. Phải thường suy
niệm có sanh ắt có tử để tự nhắc nhủ mình tinh cần tích lũy các công đức, các
thiện sự như bố thí, trì giới, các công việc lợi tha.
Này đại chúng! Phải
thường trực tưởng niệm đời sống ngắn ngủi, bao nhiêu năm không biết hạn kỳ; và
sự chết thì luôn hờm sẵn để cắt lìa, đoạn diệt mạng sống của ta. Vậy, có thể
nghĩ tưởng về cái chết và tu tập niệm chết trong một ngày, một đêm:
“Sau một ngày một đêm, ta sẽ chết, vậy ta phải khéo miên mật chánh niệm, tỉnh
giác!” Ai tinh cần thực hành được một ngày, một đêm như vậy là đã làm nhiều,
đúng theo yêu cầu của Như Lai, thật đáng khen ngợi.
Có vị khác, người khác có
thể nghĩ tưởng về cái chết và tu tập niệm chết trong thời gian chỉ một bữa ăn:
“Sau thời gian bữa ăn này ta sẽ chết, vậy ta phải khéo miên mật chánh niệm, tỉnh
giác!” Một vị khác:“Đời người không
phải giới hạn trong một bữa ăn mà chỉ trong thời gian nhai nuốt bốn năm miếng ăn
thôi”. Có vị khác:“Đời người chỉ tồn tại trong thời gian chỉ một miếng ăn”. Một vị
khác nữa:“Sự sống chỉ được gói ghém trong
một hơi thở vào, một hơi thở ra!” Có vị: “Sự sống nằm vỏn vẹn chỉ trong một niệm, trong
một sát-na thôi!”. Những hành giả suy niệm về sự chết như vậy là đã rất miên
mật, rất tinh cần; những tạp niệm tham sân, bụi bặm phiền não không có cơ hội
len thấm vào tâm trí vị ấy.
Này đại chúng! Cuối cùng,
người suy niệm, quán tưởng sự chết chỉ trong một niệm, trong một sát-na là cao
tột, là cùng tận, là đúng với chân lý, là hợp với tuệ trí đệ nhất nghĩa. Tại sao
vậy? Như cái bánh xe, khi lăn nó chỉ tiếp đất ở một điểm và khi dừng, nó cũng
chỉ dừng trên một điểm. Sự sống của tất thảy chúng sanh, chúng chỉ sống, chỉ
hiện tồn, chỉ có mặt khi lục căn giao tiếp với lục trần trong mọi diễn tiến
duyên khởi đang là. Nói là sáu (lục căn) nhưng luôn luôn chỉ có một; chỉ
có một căn vận hành, giao tiếp; rồi qua từng sát-na, từng tiểu sát-na chúng
chuyển đổi cho nhau rất vi tế, rất nhanh nhạy. Và trong sự giao tiếp đang là của
một căn ấy, cũng chỉ có một điểm giao tiếp với thực tại đang là như bánh xe tiếp
đất kia vậy. Nói cách khác, đời sống của chúng sanh chỉ kéo dài trong một niệm,
một sát-na; sau một niệm, một sát-na ấy là chấm dứt sự sống. Một niệm, một
sát-na sống; một niệm, một sát-na chết và cứ thế tiếp diễn sống, chết, sống,
chết trùng trùng vô cùng tận! Nếu lập ngôn một cách cô đọng thì:
“Trong một sát-na quá khứ khi nó sống thì nó không có mặt trong hiện tại, không
có mặt trong vị lai. Trong một sát-na khi nó đang sống trong hiện tại thì nó
không có mặt trong quá khứ, không có mặt trong vị lai. Trong một sát-na khi nó
sống trong vị lai thì nó không có mặt trong hiện tại, nó không có mặt trong quá khứ!”
Giảng đến ngang đây, đức
Phật lại cảm hứng ngữ thốt lên một bài kệ thơ nữa:
“- Ôi! Sự sống của một hữu tình
Sự sống ấy là gì?
Là khổ, là lạc, là hỷ,
Là ưu, là ai, là hoạn?
Là ái, là ố, là sầu,
Là thương, là bi, là hận?
Tất cả đấy, chúng tồn tại ở đâu?
Chúng có mặt ở không, thời gian nào?
Trú xứ nào? Chỗ nào?
Sự thật là nó chỉ sống
Trong một niệm thoáng qua
Cái gọi là sắc thọ tưởng hành thức uẩn ấy
Của người đã chết
Hay của người đang sống
Đều giống nhau
Đều một đi không trở lại
Không có thế giới sanh
Nếu ý thức không sanh
Không có thế giới diệt
Nếu ý thức không diệt
Thế giới chỉ hiện tồn
Khi ý thức có mặt
Thế giới là hoại diệt
Khi ý thức tan rã
Theo với nghĩa tuyệt đối,
Theo với đệ nhất nghĩa
Sinh tử là như thế
Bất sanh, bất tử cũng là như thế!”
Vậy này đại chúng! Những
cách quán niệm về sự chết như vậy; tinh cần, miên mật trong một ngày, một đêm;
trong một bữa ăn; trong bốn năm miếng nhai nuốt; trong một miếng ăn; trong một
hơi thở vào ra hay trong một niệm thì tất thảy mọi triền cái(1)
đều được áp đảo, những thiền chi(2) sẽ xuất hiện, vị ấy sẽ đạt cận hành
định. Cận hành định này là do “tử tưởng”(3) phát
sanh.
Tưởng niệm về sự chết
phải luôn tinh cần, vị ấy sẽ không tham luyến đối với bất cứ sự hiện hữu nào,
không bám víu vào một đối tượng nào trong đời sống, không trách cứ ác pháp nào,
không tích chứa một sở hữu nào, không bị cấu uế của lòng tham trong bốn món vật
dụng. Từng sát-na trôi qua, sinh và diệt trôi qua, liên miên bất tận không có
điểm dừng nơi sắc pháp, nơi cảm thọ, nơi tri giác, nơi tâm hành, nơi nhận thức;
nhờ vậy, tướng vô thường dần dần lộ rõ trong tuệ nhãn vị ấy. Và khi tướng vô
thường xuất hiện thì tướng về khổ và vô ngã cũng đồng thời xuất hiện; vị ấy thấy
rõ tam tướng, đi vào lộ trình tâm thánh đạo.
Trong khi một người chưa
tu tập niệm chết thì thường bị bất an, bối rối, hãi hùng, kinh sợ vào lúc lâm
chung như thể thình lình bị dã thú vồ chụp, như bất chợt bị ma quỷ đón bắt, như
bị rắn mổ, như bị kẻ cướp trấn lột hay như bị kẻ sát nhân bức hại; thì người có
tu tập niệm chết, ngược lại, được ra đi an lành, không vọng tưởng, hoang tưởng,
được chánh niệm tỉnh giác, hoàn toàn tự chủ và vô úy. Nếu chưa đặt được bàn chân
trên mảnh đất bất tử do thấy rõ tam tướng, chưa đi vào được cận hành định như ý
muốn thì khi thân hoại mạng chung, vị ấy cũng sẽ hóa sanh vào cảnh giới an vui
hạnh phúc của cõi người hoặc cõi trời.
“- Ai trên đời có trí
Tinh cần, tỉnh giác luôn
Hằng tu tập niệm chết
Có lợi lạc phi thường!
Ai có duyên niệm chết
Một ngày hoặc một đêm
Một bữa ăn, miếng ăn
Một hơi thở, một niệm
Người ấy đã thách đấu
Với ác ma, thần chết
Kiên cường không sợ hãi
Người ấy là bất tử
Người ấy là vô sanh
Đạt an vui tối thượng!”
Bài pháp hiên ngang, hào
hùng như lưỡi kiếm dựng giữa trời cao, như giọng sư vương uy dũng rống lên giữa
rừng sâu của đức Phật hôm ấy như tuyến chiến với hư vô, coi thường hư vô, bước
ra khỏi hư vô đã giúp cho không biết bao nhiêu người thấy rõ bộ mặt thật của sự
chết; đồng thời biết đâu là sanh tử trong một niệm, biết đâu là vô sanh bất tử
cũng trong một niệm; một số trong họ đi vào vài quả thánh đầu tiên.
Đặc biệt, trong hội chúng
hôm ấy có cô gái mười sáu tuổi con người thợ dệt(1)
đã bừng bừng hỷ hoan trên khuôn mặt; và cô tự hứa với lòng là sẽ tu tập niệm
chết từ khoảnh khắc này, từ hơi thở này, sẽ không còn dám biếng lười, dể duôi,
giải đãi nữa...