Trong truyền thống văn hóa tâm linh của Ấn Độ, Himalaya và sông Hằng (Gangā) được xem là hai hình ảnh thiêng liêng, tiềm ẩn một sức mạnh nội tại, một khả năng siêu việt và một suối nguồn cảm xúc vô tận mà con người thường mơ ước đến.
Nếu như dãy Himalaya là một biểu tượng cho sự vĩ đại và oai hùng của tinh thần dân tộc, thì sông Hằng cũng được ví như một nữ thần từ ái, luôn dang rộng đôi tay để bảo bọc, dưỡng nuôi và bồi đắp cho nền văn minh xứ Ấn suốt bao thiên niên kỷ qua. Lịch sử tôn giáo và văn hóa của Ấn Độ sẽ giảm đi tính huyền bí và thiêng liêng bao đời nay nếu đất nước này thiếu đi hai biểu tượng tôn nghiêm và kỳ vĩ như thế. Vô số các vị ẩn sĩ, các bậc thánh nhân, các nhà hiền triết đã dành trọn đời mình để chiêm nghiệm, tu trì và truyền bá những tinh hoa tư tưởng tại những trú xứ thiêng liêng này. Dấu ấn về hành trạng và sự nghiệp của họ vẫn còn lưu lại đâu đó trên những hang động heo hút thâm nghiêm, những triền đá cheo leo, cô tịch của miền núi tuyết hay bên những dòng nước khi cuồn cuộn, khi êm ả, những bãi cát mênh mông, những ngôi đền cổ kính sớm chiều vọng tiếng chuông ngân hòa trong âm thanh cầu nguyện theo ngữ điệu từ ngàn xưa, và rực sáng dưới những ánh lửa kỳ ảo bên bờ sông Hằng lịch sử.
Bắt nguồn từ đỉnh Gangotri trên dãy Himalaya, băng qua một vùng đồng bằng dài trên 2500 km với những trung tâm đô thị lớn như Kanpur, Allahabad, Varanasi, Patna, Calcutta, và cuối cùng đổ ra vịnh Bengal, sông Hằng được xem là dòng sông linh thiêng nhất tại Ấn Độ. Đối với Bà-la-môn giáo, dòng sông này là nơi lưu xuất các nhánh sông thiêng, là một vị nữ thần có khả năng tịnh hóa mọi sự ô nhiễm của đời sống trần tục, và nó cũng được ví như một bà mẹ với thần lực diệu kỳ mà các bộ thánh kinh Vệ-đà hằng tôn vinh và ca ngợi. Theo các bộ sử thi Mahābhārata và Rāmāyaṇa, giống dân Aryan thường cư trú tại đồng bằng sông Hằng vì dòng sông này là khởi nguồn của bảy con sông thiêng tại Ấn Độ.
Các huyền thoại khác nhau về nguồn gốc của dòng sông này được tìm thấy trong các sử thi, các bộ huyền sử cùng các kệ tụng bằng Phạn ngữ. Một trong những huyền thoại phổ biến nhất kể lại như sau:
Tương truyền vua Sagara có hai người vợ rất đáng yêu. Người vợ đầu sanh sáu mươi ngàn người con và người vợ thứ hai chỉ sanh một người con. Trong một buổi lễ nọ, vì mải đuổi bắt một con ngựa, sáu mươi ngàn vương tử đã quấy rầy sự yên tĩnh của thánh Kapila nên vị này đã dùng lửa trong mắt mình thiêu sống tất cả các vương tử kia. Về sau, Bhagiratha, người cháu nội của vua Sagara đã cầu thỉnh được nữ thần sông Hằng và thần Śiva. Từ thiên giới, sông Hằng chảy xuống qua và chân của thần Śiva trước khi chảy xuống mặt đất. Theo tín đồ Ấn giáo, nơi mà sông Hằng chảy từ thiên giới xuống chân của thần Śiva chính là khu vực Gangotri ngày nay. Vừa lúc sông Hằng chảy xuống mặt đất, Bhagiratha liền lên ngựa quay về nơi các vương tử bị thiêu sống. Dòng sông Hằng chảy theo chân của Bhagiratha đến nơi ấy và linh hồn các vị vương tử ấy được siêu thoát. Nơi mà tro cốt của các vương tử được hòa trong sông Hằng chính là đảo Sagar, từ nơi này sông Hằng bắt đầu đổ ra đại dương.
Với một niềm tin sâu đậm từ huyền thoại trên, tín đồ Bà-la-môn giáo ngày xưa hay Ấn giáo ngày nay thường hành hương đến năm địa điểm quan trọng của con sông này, đó là: Gangotri, nguồn của sông; Hardwar, nơi sông đổ vào đồng bằng; Prayāg, nơi giao lưu của sông này với hai con sông lớn khác là Yamunā và Sarasvatī; Kāsī (Ba-la-nại), trú xứ của thần Śiva; và Sagar, nơi sông Hằng đổ ra biển. Khi đến những nơi ấy, người ta thường tắm rửa, uống nước, lễ bái và cầu nguyện. Hàng triệu người đến tắm trên sông Hằng mỗi ngày. Tín đồ Ấn giáo luôn tin rằng những ai được tắm, hoặc thậm chí thấy tận mắt con sông này sẽ tiêu trừ được tội lỗi và tiến gần đến bờ giải thoát. Những ai không đến được dòng sông này thường hành lễ với nước sông được những người hành hương mang về.
Trong số những nơi hành hương của người Ấn, có lẽ Ba-la-nại là nơi đông đúc nhất. Ba-la-nại được mệnh danh là thành phố thiêng, nhưng nó cũng có tên là thành phố hỏa táng. Người dân Ấn ở khắp nơi đổ về thành phố này để làm lễ hỏa táng cho người thân. Thường thì tử thi được quấn trong những lớp vải trắng hoặc đỏ, và được đưa lên đài hỏa táng đốt bằng củi sau vài lời cầu nguyện ngắn của người dự lễ. Người dự lễ không tỏ ra đau xót hay than khóc, vì họ tin rằng sau khi hoả táng, tro cốt của người chết sẽ được rải trên sông Hằng và nhờ đó họ được giải thoát. Việc hỏa táng diễn ra suốt hai mươi bốn giờ trong ngày. Tại những bến sông ở thành phố này, có những đoạn dài chỉ khoảng bảy cây số nhưng có đến hai ngàn ngôi đền lớn, nhỏ nằm san sát nhau. Mỗi khi bình minh lên, tất cả những sinh hoạt tôn giáo nơi đây như bừng dậy, sôi động và nhộn nhịp. Các đạo sĩ Bà-la-môn ra bến sông rung chuông và nâng cao những cây đèn lửa hướng về phía mặt trời đang mọc, miệng lâm râm tụng kinh, dân chúng đổ xuống sông tắm, kẻ đốt nến, người dâng hoa, lại có những người ngồi theo tư thế Yoga dọc theo những hàng tâng cấp, từng đàn chim bay lượn trên bầu trời mờ ảo, du khách phương xa đáp thuyền dạo sông, thả đèn trên dòng nước và ngắm bình minh đang lên bên kia bờ sông. Trời càng về sáng, bến sông càng đông đúc hơn, thuyền bè bắt đầu rời bến, người người chen nhau ra sông tắm giặt, cầu nguyện, thả tro cốt người chết và lấy nước sông đem về.
Sông Hằng được nhắc đến nhiều lần trong các huyền thoại và truyền thuyết cổ xưa của Ấn Độ trong mối liên hệ với nhiều vị thần khác như Śiva và Viṣṇu. Vào thời trung cổ, hai nữ thần sông Hằng và sông Yamunā được khắc vào hai bên cổng vào của các ngôi đền Ấn giáo. Nữ thần sông Hằng thường được khắc họa trong hình dáng một người nữ cưỡi cá sấu, một biểu tượng cho sự nguy hiểm của chết chóc và sự sung túc của cuộc sống.
Vào thời đức Phật, đồng bằng sông Hằng chiếm một vị trí địa lý quan trọng và có ảnh hưởng nhiều đến các lĩnh vực chính trị, kinh tế và văn hóa của các vương quốc lớn nhất thời bấy giờ. Theo các nguồn sử Phật giáo, đương thời, hệ thống chính trị của Ấn Độ được chia làm hai khối quân chủ và cộng hòa gồm mười sáu nước khác nhau.1 Đứng đầu khối cộng hòa là liên bang Vajji (Bạt-kỳ). Liên bang này cai trị toàn bộ khu vực phía Bắc của sông Hằng và mạn Đông sông Gandak. Dẫn đầu khối quân chủ là bốn vương quốc hùng mạnh: Magadha (Ma-kiệt-đà), Kosala (Câu-tát-la), Vaṁsa (Bạt-sa), và Avantī (A-bàn-đề). Ba trong số bốn nước này luôn thay nhau chiếm cứ lưu vực sông Hằng và sông Yamunā. Với nguồn nước dồi dào của sông Hằng và lượng mưa cao vào cuối mùa Hạ, đồng bằng sông Hằng trở thành một khu vực phát triển nông nghiệp khá lý tưởng.
Trên phương diện kinh tế, sự phát triển kỹ nghệ đồ sắt đã tạo nên những chuyển biến lớn trong xã hội vào cuối thời kỳ Vệ-đà và là động lực chính để sản sinh ra nền văn minh sông Hằng. Cuối TK VII Tr. CN, các công cụ đồ sắt là phương tiện không thể thiếu trong việc khai khẩn những khu vực cây cối chằng chịt thuộc lưu vực sông Hằng. Lửa cũng được dùng vào việc này, nhưng người ta không thể dọn sạch gốc của những loại cây thuộc vùng nhiệt đới có rễ đâm sâu dưới lòng đất nếu như không dùng đến những công cụ bằng sắt. Thêm vào đó, việc cày bừa không thể nhờ vào các công cụ bằng gỗ bởi đất tại lưu vực sông Hằng là một loại đất cứng và việc canh tác chỉ thành công nếu như đất nơi ấy được cày sâu. Như thế, chính sự phát triển của công nghệ đồ sắt mà việc trồng trọt tại đồng bằng sông Hằng được phát triển. Sự phát triển nông nghiệp với mức thặng dư cao đã phát sinh ra nhu cầu thương mại và sự hình thành những trung tâm đô thị. Hẳn nhiên quá trình đô thị hóa không thể diễn ra một cách đột ngột mà nó luôn song hành với quá trình định hình những thể chế chính trị và xã hội tại những khu vực đó.
Trên phương diện xã hội, quá trình đô thị hóa là một động lực quan trọng làm nảy sinh chủ nghĩa cá nhân trong đời sống xã hội cũng như nền quân chủ chuyên chế trong lĩnh vực chính trị. Chính hai khuynh hướng này đã tạo nên những tác động tiêu cực đối với đời sống luân lý và tinh thần của mỗi cá nhân, và làm cho họ cảm thấy bất mãn hơn đối với thời cuộc. Đây chính là tiền đề rất có nghĩa cho sự hưng khởi của Phật giáo trong bối cảnh khá đặc thù như thế. Sự xuất hiện của Phật giáo như là một phong trào tâm linh để khai phóng những nội kết trong đời sống cá nhân cũng như những mâu thuẫn vốn có của xã hội, từ đó mở ra một hướng đi mới cho loài người bằng tinh thần từ bi, vô ngã, và phong trào này cũng đưa ra một khuynh hướng nhận thức mới đặt trên nền tảng của lý trí và tinh thần tự do tư tưởng. Vì thế sự xuất hiện của Phật giáo được xem là một sự kiện quan trọng trong lịch sử của nền văn minh sông Hằng.
Trong kinh điển Phật giáo, sông Hằng cùng với bốn con sông lớn khác là Yamunā, Aciravatī, Sarabhū, và Mahī được xem là những con sông chính ở Diêm-phù-đề (Ấn Độ) (Tương Ưng II). Theo các bản chú giải của các bộ Tương Ưng và Tăng Chi, sông Hằng bắt nguồn từ hồ Anotatta trên núi Tuyết. Theo kinh Trường A-hàm, trên núi Tuyết có ao A-nậu-đạt, ngang dọc năm mươi do tuần, chung quanh ao được trang hoàng bằng bảy báu, dưới đáy ao có nhiều cát vàng, có bốn con sông tuần tự chảy từ bốn phía Đông, Tây, Nam, Bắc của ao này vào biển, đó là các sông Hằng, Bà-xoa, Tân-đầu và Tư-đà. Bản kinh này cũng giải thích nghĩa của chữ A-nậu-đạt như sau: các Long vương ở Diêm-phù-đề thường gặp phải ba nạn, 1. Bị gió và cát nóng chạm vào thân, thiêu đốt da thịt, xương tủy làm cho khổ não; 2. Bị gió dữ thổi mạnh vào trong cung, làm mất y báu, chịu khổ não; 3. Thường bị chim lớn cánh vàng bay vào cung dắt đi, hoặc bắt rồng để ăn thịt. Riêng Long vương ở ao này không gặp phải những nạn như thế, nên ao này có tên là A-nậu-đạt.2 Bản chú giải Kinh Tập (Suttanipāta) thì giải thích rằng ánh sáng mặt trời, mặt trăng không chiếu thẳng vào hồ nên không làm nước trong hồ bị nóng, vì thế hồ này có tên là Anotatta (A-nậu-đạt).3
Luật tạng phái Căn Bản Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ có ghi lại rằng một lần nọ, khi đi qua sông Hằng, đức Phật bỗng quay lại nhìn bờ sông một hồi lâu. Thấy vậy, các vị Tỳ-kheo mới thưa hỏi duyên cớ, nhân đó đức Phật bèn kể về nguồn gốc sông Hằng như sau. Thuở xưa có một vị vua hiền đức tên là Piṇḍavaṃśa. Sau khi gặp những cảnh lão, bệnh, tử trong thành, vua bèn từ bỏ mọi dục lạc và sống đời ẩn sĩ. Lúc ấy, trong vương quốc của vua có một Bà-la-môn thông thái và giàu có tên là Velama đến thưa vua rằng: “Đại vương chớ lo âu và phiền muộn nhiều, ngài nên hưởng thọ quả báo từ phước nghiệp của mình. Chúng sanh tạo các nghiệp thiện, ác khác nhau. Người tạo nghiệp thiện thì thường sinh trong thế giới chư thiên. Nay đại vương tạo nghiệp thiện nên trở thành một bậc thánh vương”. Sau đó, theo lời khuyên của Bà-la-môn này, vua đã tổ chức một lễ tế đàn rất long trọng. Tại đàn tràng ấy, vua cho đào một hồ lớn và cho dẫn nước ācāma vào. Nhờ có hồ nước này mà khí hậu nơi ấy trở nên mát mẻ, và vì thế hồ này có tên là Anavatapta. Suốt mười hai năm sau đó nhờ dòng nước ācāma chảy vào nên nơi này trở thành một khu hồ rộng lớn và hồ này chính là nguồn của dòng sông Hằng hiện tại.4 Bộ luật này là một trong số rất ít các văn bản Phật học ghi lại các truyền thuyết về nguồn gốc của sông Hằng.
Kinh điển Phật giáo cho biết rằng, vào thời đức Phật, đồng bằng sông Hằng là nơi hội tụ của nhiều trung tâm văn hóa, kinh tế và chính trị lớn như Benāres, Campā, Ayojjha, Kimbhilā, Ukkāvelā, Payāga, Pātaliputta, và Sankassa. Vì khu đồng bằng này dân cư đông đúc, kinh tế phát triển, giao thông tiện lợi và sản vật phong phú nên người Ấn xem nơi đây là vùng đất thiêng. Trong suốt thời gian hoằng hóa của mình, đức Phật đã trú tại nhiều nơi trong lưu vực sông Hằng và tất nhiên Ngài đã nhiều lần qua lại sông Hằng. Theo kinh Phương Quảng Đại Trang Nghiêm, sau khi thành đạo, trên đường đến xứ Ba-la-nại để độ cho năm anh em tôn giả Kiều-trần-như, đức Phật đã đi qua nhiều ngôi làng và được dân chúng các nơi ấy chào đón cung kính và cúng dường các loại thức ăn thượng vị. Khi đến bờ sông Hằng, Ngài nhờ người chèo thuyền đưa mình qua sông. Người ấy đáp: “Tôi sẽ đưa Ngài qua sông nếu Ngài có tiền”. Đức Phật trả lời: “Ta không có tiền”. Người chèo thuyền lại bảo: “Nếu Ngài không có tiền, tôi không thể đưa Ngài qua sông”. Liền khi ấy, đức Phật liền thi triển thần thông và trong giây lát Ngài đã qua đến bên kia bờ sông. Lúc chứng kiến được điều kỳ diệu đó, người chèo thuyền kia cảm thấy vô cùng ân hận, buồn tủi và tự trách rằng mình như kẻ vô trí đã không chịu đưa một bậc thánh nhơn như thế qua sông. Khi chuyện này đến tai vua Tần-bà-sa-la, vua liền ra lệnh cho người chèo thuyền rằng: “Kể từ nay trở đi nếu có bậc Sa-môn nào qua sông, ngươi không được đòi tiền họ”.5
Việc đức Phật thi triển thần thông để qua sông Hằng cũng xảy ra vào lúc cuối đời của Ngài. Sau khi thuyết giảng về năm sự nguy hiểm của đời sống bất thiện và năm lợi ích của đời sống thuần thiện cho dân chúng ở Pāṭaligrāma, một khu đô thị nằm trên bờ sông Hằng, đức Phật liền đến bến sông Hằng. Vì lúc ấy là mùa lũ nên nước sông dâng cao và chảy xiết. Trong lúc mọi người đang cố tìm thuyền, bè để qua sông thì đức Phật liền hiển thị thần thông và nhanh như một lực sĩ co duỗi cánh tay, Ngài đã sang đến bờ bên kia.6 Theo tác phẩm Phật Sở Hành Tán của ngài Mã Minh, sau khi thuyết giảng tại nhiều nơi ở nước Ma-kiệt-đà, đức Phật và chúng Tỳ-kheo cùng đến bến sông Hằng. Lúc bấy giờ dân chúng ở bến sông ấy vội đem nhiều thuyền được trang hoàng đẹp đẽ để rước đức Phật và chư tăng qua sông. Vì có quá nhiều người mang thuyền đến nên đức Phật, vì muốn mọi người không khởi tâm cơ hiềm, đã thị hiện thần thông và trong phút chốc Ngài và chư tăng đã sang bờ bên kia. Khi thấy điềm lành ấy, mọi người đều sanh tâm kính phục và họ đặt tên bến sông ấy là Cù-đàm.7 Theo một số văn bản Phật học, vào mùa mưa nước sông Hằng dâng cao và chim chóc có thể uống nước sông ngay trên bờ (Luật tạng Nam truyền I). Khi nước lũ dâng cao, nhà cửa hai bên bờ sông bị tàn phá và việc qua lại sông của dân chúng rất khó khăn (Chú giải kinh Tương Ưng). Bản chú giải Kinh Tập và Pháp Cú còn ghi lại chuyện đức Phật được các vương tử xứ Licchavi mời đến Tỳ-xá-ly để cầu nguyện lúc xứ này bị hạn hán, mất mùa và tật dịch. Trên đường đức Phật đi từ Tỳ-xá-ly đến sông Hằng để về lại thành Vương-xá, người dân đã tổ chức một lễ hội tên là Gaṅgārohaṇa để đánh dấu sự kiện này.8
Sự hiển thị thần thông của đức Phật trong những lần như thế thường là một biểu tượng, một ẩn dụ của những khái niệm “vượt dòng” hay “đến bờ bên kia” (đáo bỉ ngạn) trong đạo Phật. Cũng trong tác phẩm trên, ngài Mã Minh giải thích rằng đức Phật đã qua sông không phải bằng thuyền thế gian mà bằng thuyền trí tuệ và Ngài đã dùng thuyền này để tế độ chúng sanh.9 Đức Phật thường ví giáo pháp của Ngài như ngón tay để chỉ mặt trăng,10 như chiếc bè để qua sông sanh tử. Tùy theo căn tánh và nghiệp lực, có những chúng sanh vượt thoát dòng sanh tử, nhưng cũng có những chúng sanh mãi chìm đắm trong đó. Trong Pháp Hoa Văn Cú Kí, ngài Trạm Nhiên có trích dẫn một đoạn kinh nói về bảy hạng người trong sông Hằng. Có những người vào sông bị chìm, có những người tuy bị chìm nhưng sau đó ra khỏi, có những người sau khi ra khỏi lại nhìn các phương khác nhau, v.v… Bảy hạng người đó dụ cho các hàng Nhất-xiển-đề, phàm phu, Thanh-văn, Bích-chi, Bồ-tát, v.v…12 Khi giảng về nghiệp lực của chúng sanh, đức Phật cũng dùng nước sông Hằng để ví dụ. Kinh Hoa Nghiêm nói rằng trên bờ sông Hằng có vô số ngạ quỉ lõa lồ, đói khát, lửa cháy khắp thân; lại có các chúng sinh khác như quạ, kên kên, chó sói rượt bắt nhau. Vì bị đói khát nên các ngạ quỷ bèn tìm nước uống, nhưng dù ở bên bờ sông mà chúng không thấy nước, có kẻ vừa thấy nước thì nước ấy liền khô cạn.13 Đại Thừa Huyền Luận giải thích rằng, do nghiệp lực chúng sanh khác nhau nên cùng là nước sông Hằng mà loài người thấy đó là nước, ngạ quỷ thấy đó là lửa, chư thiên thấy đó là đất, các loài cá thấy đó là chỗ ở.14 Trong Kinh tạng Nguyên thủy, đức Phật không chấp nhận quan niệm rằng nước sông Hằng có thể rửa sạch tội lỗi của chúng sanh. Theo Ngài, chỉ có sự tu tập chân chính mới có thể chuyển hóa được nghiệp thức của mỗi người.
Vì sông Hằng là con sông nổi tiếng và khi còn tại thế đức Phật đã nhiều lần hoằng hóa ở khu vực đồng bằng của con sông này nên dòng sông này đã trở thành một ẩn dụ, một hình tượng thường được nhắc đến trong các pháp thoại của Ngài. Luận Đại Trí Độ và Khan Hành Kim Cang Bát-nhã Kinh Tán giải thích rằng, trong cõi Diêm-phù-đề có nhiều sông lớn hơn sông Hằng, nhưng đức Phật thường chọn sông này để ví dụ vì: 1. Cát của sông này rất nhiều; 2. Người đời xem sông này là sông cát tường, phước đức, vì họ tin rằng nước sông có thể rửa sạch tội lỗi; 3. Trải qua nhiều kiếp, tên của con sông này không thay đổi; 4. Đức Phật và hàng đệ tử của Ngài thường du hóa trên bờ sông này. Kim Cang Bát-nhã kinh nghĩa sớ còn giải thích thêm rằng, năm vương quốc lớn của xứ Thiên Trúc đều nằm trên bờ sông này. Sông này bắt nguồn từ ao A-nậu-đạt trên đỉnh Hương-sơn, dài tám ngàn dặm, nơi rộng bốn mươi dặm, nơi hẹp mười dặm, cát trong sông rất mịn. Vì sông sâu nên voi ngựa đi qua đều bị chìm.16 Khi nói đến sông Hằng, đức Phật thường đưa ra những ví dụ và ẩn dụ như sau:
1. Cát sông Hằng nhiều vô lượng. Mỗi khi nói đến chư Phật, chúng sanh, quốc độ, chư thính chúng… nhiều vô lượng, đức Phật thường đem số cát sông Hằng để ví dụ (Tương Ưng IV, kinh Bát-nhã, Kim-cang, Pháp Hoa, Niết-bàn…).
2. Một nhúm muối nhỏ bỏ vào chén nước nhỏ thì nước trong chén sẽ bị mặn, không thể uống được, nhưng nếu đem nhúm muối ấy bỏ vào sông Hằng thì nước sông Hằng không bị mặn. Cũng ví như người có tu tập tâm, có giới đức, có tâm quảng đại như sông Hằng thì một nghiệp ác nhỏ không thể làm người ấy đau khổ (Tăng Chi I).
3. Sông Hằng chảy mang theo nhiều bọt nước, những bọt nước ấy cũng như ngũ uẩn là giả hợp, là trống không (Tương Ưng III, phẩm Hoa).
4. Người khởi lên vọng tưởng rằng tầm và tứ có thể đoạn diệt được chẳng khác nào người có ý tưởng ngây ngô rằng có thể dùng một nắm tay để chặn dòng nước của sông Hằng (Tương Ưng IV, phẩm Tương Ưng Tâm).
5. Ví như sông Hằng hướng về biển cả, xuôi dòng về biển cả, hàng đệ tử của đức Phật chỉ hướng về Niết-bàn (Ðại kinh Vaccaghotta 37, Kinh Trung Bộ).
6. Cát của sông Hằng chỉ trôi theo nước của sông Hằng, cũng thế kinh giáo của đức Phật luôn xứng hợp, tùy thuận với dòng Niết-bàn (Kinh Lăng-già).
7. Sông Hằng dụ cho chân lý, nước sông Hằng dụ cho Chân Như (Kinh Niết-bàn, Bảo Tánh Luận).17
8. Nước sông Hằng tuy nhiều, nhưng không thể nhiều bằng máu, nước mắt của chúng sanh hay sữa mẹ mà chúng sanh đã uống trong vòng sanh tử (Tạp A-hàm, quyển 33).
9. Ví như khúc gỗ trôi trên sông Hằng, không vướng vào hai bờ, không bị chìm, không bị nhặt lấy… chỉ trôi theo dòng nước mà ra biển, cũng vậy, chư tỳ-kheo cũng chỉ nên hướng về Niết-bàn (Tương Ưng IV, phẩm Rắn Độc).
10. Ví như người chăn gia súc biết quan sát hai bên bờ sông, biết cách đưa đàn gia súc qua sông Hằng an toàn, có những Sa-môn, Bà-la-môn khéo biết đời này, đời sau, ma giới, phi ma giới… thì được an lạc, hạnh phúc lâu dài (Tiểu Kinh Người Chăn Bò 34, Trung Bộ Kinh).
Trong số những ví dụ và ẩn dụ trên, có lẽ ví dụ số cát sông Hằng (Hằng hà sa số) là ví dụ mà kinh điển thường nói đến nhiều nhất. Luận Đại Trí Độ có nói rằng số cát trong sông Hằng là vô lượng, hàng phàm phu không thể tính đếm được, duy chỉ có đức Phật và Pháp thân Bồ-tát mới biết được số đó.18 Nhưng làm sao có thể biết rằng đức Phật biết được số lượng cát trong sông Hằng. Bộ luận này mới trích dẫn một câu chuyện như sau. Một lần nọ, đức Phật ngồi bên một khu vườn nằm ngoài tinh xá Kỳ-hoàn. Lúc ấy, có một Bà-la-môn đến bên Phật và hỏi rằng: “Rừng cây này có bao nhiêu lá?” Đức Phật đáp: “Có bấy nhiêu lá”. Bà-la-môn sinh tâm nghi, bèn vào rừng hái một nắm lá cây rồi giấu đi. Sau đó ông quay lại nơi đức Phật đang ngồi và hỏi rằng: “Rừng cây này có bao nhiêu lá nhất định?” Đức Phật liền đáp: “Nay thiếu bấy nhiêu lá”. Rồi Ngài nói cho Bà-la-môn kia biết rằng ông ta vừa hái chính xác bao nhiêu lá trong rừng. Bà-la-môn ấy vô cùng kính phục, xin xuất gia và về sau chứng quả A-la-hán.19 Vì rằng, đức Phật biết được số lá trong rừng, nên Ngài cũng có thể biết được số cát trong sông Hằng. Đức Phật thường dạy hàng đệ tử của mình rằng những gì mà Ngài giảng dạy chỉ là một phần rất nhỏ so với những gì mà Ngài đã chứng biết. Bản sớ giải kinh Hoa Nghiêm của ngài Trừng Quán có kể lại rằng có một lần đức Phật và chư tỳ-kheo đi đến một khu rừng nằm bên bờ sông Hằng. Ngài hái một nắm lá và hỏi chư tỳ-kheo rằng lá trong tay Như Lai nhiều hay lá của các loài thảo mộc trong thế gian này nhiều. Chư tỳ-kheo liền đáp lá trong tay đức Thế Tôn rất ít so với lá trong thế gian này. Nhân đó, đức Phật dạy chư Tỳ-kheo rằng tri kiến của Như Lai về các pháp cũng như lá của các loài thảo mộc trong thế gian, mà những gì Ngài đã tuyên thuyết, giảng dạy chỉ như lá trong tay mà thôi.20
Trong Kinh điển Đại Thừa, đức Phật không chỉ dùng hình tượng cát sông Hằng để ví cho vô số chư Phật và chư Bồ tát trong mười phương, mà còn để dụ cho thần lực, pháp thân và hào quang của đức Phật. Kinh Lăng-già giải thích rằng cát sông Hằng tuy bị các loài cá, rùa, súc vật giẫm đạp, nhưng cát vẫn không cảm thấy phiền muộn, không thấy có ngăn ngại, không bị ô nhiễm… Cũng thế, trí tuệ của đức Như Lai như sông Hằng, thần lực của Ngài như cát của sông. Do bổn nguyện độ sanh của mình, đức Như Lai không khởi tâm phiền muộn, ưu sầu trước những xúc não của hàng phàm phu. Vì là tánh của đất, cát sông Hằng không mất đi tánh đất dù gặp phải lửa dữ. Cũng thế, pháp thân của Như Lai không thể tan hoại trước lửa nhiệt não của hàng phàm phu ngu si. Cũng như cát trong sông Hằng, hào quang của đức Như Lai là vô lượng. Trong bộ kinh này, cát sông Hằng còn được ví như giáo pháp của đức Phật, bản thể của Phật quả, và cuối cùng đức Phật còn dạy rằng: “Những ai thấy chư Phật như cát sông Hằng, vốn bất hoại, bất biến, thì những người ấy mới thật sự thấy được các đức Như Lai”.21
Sông Hằng cũng là hình ảnh mà đức Phật dùng để giảng giải về tánh bất sanh, bất diệt trong mỗi chúng sanh. Theo kinh Thủ Lăng Nghiêm, vua Ba-tư-nặc khi nghe ngoại đạo nói rằng chết là mất hẳn, đã sinh tâm hồ nghi và đến bạch Phật. Đức Phật lấy ví dụ rằng: năm lên ba tuổi nhà vua đã thấy được sông Hằng, cho đến lúc đầu bạc, mặt nhăn vua cũng thấy sông Hằng. Tuy thân xác của vua có thay đổi, biến hoại, nhưng cái tánh thấy thì không già, không trẻ, không biến hoại, không sinh diệt. Khi nghe lời dạy đó, vua Ba-tư-nặc mới nhận chân được bản tánh bất sanh, bất diệt trong chính mình.22
Từ thời đức Phật tại thế hay trải qua những giai đoạn sau đó, sông Hằng vẫn luôn gắn liền với những sự kiện, và dòng lịch sử của Phật giáo. Một trong những sự kiện đó là việc tôn giả A-nan viên tịch giữa dòng sông này. Khi tôn giả sắp viên tịch, hai nước Tỳ-xá-ly và Ma-kiệt-đà đang có mối bất hòa nhưng dân chúng hai bên đều mong được tôn thờ xá-lợi của Ngài. Vì thương tưởng cho dân chúng hai nước này và cũng để hóa giải mối hiềm thù của họ, tôn giả A-nan đã ra giữa dòng sông Hằng, con sông được dùng làm biên giới giữa hai nước, khuyên dân chúng hai nước nên sống hòa thuận, tôn kính nhau và sau đó Ngài an trú tam muội và viên tịch. Xá-lợi ngài được tôn thờ ở cõi trời, long cung, Tỳ-xá-ly và Ma-kiệt-đà.23
Theo kinh Đại Bát-niết-bàn (Trường Bộ kinh), một trong tám phần xá-lợi của đức Phật được những người Koli xây tháp thờ tại Rāmagāma, một khu đô thị nằm trên bờ sông Hằng. Theo bộ Đại Sử, chẳng bao lâu sau, vào mùa lũ nước sông Hằng dâng cao ngập cả khu đô thị này và phần xá-lợi nơi này được đưa xuống long cung. Điều này có lẽ đã được tiên đoán như trong phần kệ tụng cuối của kinh Đại Bát-niết-bàn rằng bảy phần xá-lợi được tôn thờ tại Diêm-phù-đề và một phần khác được Long vương thờ cúng tại Rāmagāma. Đến thời vua A-dục, vua đã mang bảy phần xá lợi trong Diêm-phù-đề về cung và sau đó đích thân vua xuống Long cung để thỉnh phần xá lợi còn lại. Theo A-dục Vương truyện, khi đến Long cung, vua thấy Long-vương tôn thờ xá-lợi hết mực cung kính và không muốn trao lại xá-lợi cho mình, nên vua chỉ chiêm ngưỡng mà không thỉnh về. Sau khi về cung, vua đã xây tám vạn bốn ngàn ngôi tháp trong vương quốc mình để tôn thờ bảy phần xá-lợi trên.
Sông Hằng và lịch sử của nó luôn gắn liền với những thăng trầm của nền văn minh Ấn Độ và vận mệnh của Phật giáo tại xứ sở này. Mặc cho bao biến thiên của thời cuộc, bao đổi thay của xã hội, dòng sông này, vào ngày Đông hay Hạ, mùa lũ hay khi nước vơi, vẫn soi bóng những hình ảnh sinh hoạt tôn giáo và văn hóa tưởng chừng như không hề đổi thay suốt bao ngàn năm qua. Dấu ấn văn minh tự ngàn xưa vẫn còn lưu giữ trên từng dòng nước, từng ngôi đền, từng cội cây, hay từng nghi thức lễ bái trên bến sông này. Như dòng đời vẫn cuộn trôi theo nhịp sóng của vô thường, nước sông Hằng vẫn âm thầm, lặng lẽ trôi đi, ôm trọn trong mình cả một thế giới thiêng liêng, kỳ ảo mà bao đời nay loài người vẫn không thể nào thấu hiểu được. Dòng sông vẫn như muốn nhắn nhủ với loài người về khát vọng muôn thuở của họ, đó là khát vọng tìm về cội nguồn của chân hạnh phúc, quay về với con sông trong chính mình để gạn lọc mọi nhiễm ô, triền phược, để ngay trong bóng đêm của sanh tử dòng sông ấy có thể phản chiếu được ánh trăng ngời sáng của tự tánh, hay những tinh tú, những dải ngân hà trên bầu trời xa xăm, hay để chảy qua những quốc độ, những thế giới thanh tịnh. Những quốc độ và thế giới thanh tịnh ấy, theo kinh Hoa Nghiêm, thì rất nhiều, nhiều như số cát trong sông Hằng vậy. Thích Đồng Thành GHI CHÚ 1. Mười sáu nước này gồm: Kāsī, Kosala, Anga, Magadha, Vajji, Mallā, Cetiya, Vamsā, Kuru, Pañcāla, Macchā, Sūrasena, Assaka, Avantī, Gandhāra và Kamboja. 2. T1n1, tr. 116c-117a. Tham khảo Đại Trí Độ Luận, T25n1509, tr. 114a; Khan Hành Kim-cang Bát-nhã Kinh Tán, T33n1700, tr. 138b; Thích Ca Phổ, T50n2040, tr. 10b;. 3. D.H.H.Ingalls, “Source of a Mulasarvastivadin Story of The Origin of the Ganges”, Harvard Journal of Asiatic Study, Vol. 14, No.1/2, p. 186. 4. Sđd, tr. 185-188. 5. T3n187, tr. 606a-b. 6. J. Strong, The Buddha A Short Biography, Oxford: Oneworld, 2002, pp. 128-129. 7. T4n192, tr. 41b. 8. G..P. Malalasekera, Dictionary of Pali Proper Names, Vol I, New Delhi: Munshiram Manoharlal, 2002, p. 735. 9. Sđd. 10. Kinh Viên Giác, T 17n842, tr.917a. 11. Trung Bộ I, Kinh Ví Dụ Con Rắn. Kinh Kim-cang Bát-nhã Ba-la-mật. 12. T34n1718, tr.276c. Xem thêm Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh Tùy Sớ Diễn Nghĩa Sao, T36n1736, tr. 219a. 13. T10n279, tr. 323b. 14. T45n1853, tr.67b. 15. T25n1509, tr.114a. T33n1700, tr.138b. 16. T33n1699, tr. 112b. 17. Kim Quang Minh Tối Thắng Vương Kinh Sớ, T39n1788, tr.199c. 18. T25n1509, tr.114b. 19. Sđd. 20. Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh Tùy Sớ Diễn Nghĩa Sao, T36n1736, tr. 217b. 21. D.T. Suzuki, Studies in the Lankavatara Sutra, New Delhi: Munshiram Manoharlal, 1998, pp. 152-153. 22. Kinh Thủ Lăng Nghiêm, T19n945, tr.110b-c. 23. T34n1718, tr. 18c. 24. T50n2042, tr. 102a. Nguồn Tập San Pháp Luân 32 |
|
Nguon: phatgiaobinhdinh.com