Bassui viết bức thư sau cho một trong những đệ tử của ông sắp lìa đời:
Tosui là một thiền sư nổi danh vào thời của ông. Ông đã sống trong nhiều thiền viện và giảng dạy tại các tỉnh khác nhau.
Ngôi thiền viện sau cùng ông ghé thăm tụ họp quá nhiều môn sinh cho nên
ông nói với họ rằng ông sẽ hoàn toàn từ bỏ hẳn công tác giảng thuyết .
Ông khuyên họ nên phân tán ra và đi tới bất cứ nơi nào mà họ mong muốn.
Sau đó không một ai còn thấy được chút dấu tích nào của ông nữa.
Ba năm sau một trong số những môn sinh của ông khám phá thấy ông đang
sống với một vài người hành khất dưới một cây cầu ở Kyoto. Anh ta lập
tức năn nỉ Tosui dạy anh.
"Nếu anh có thể làm được như ta làm dù chỉ trong vài ngày thôi, ta có thể dạy," Tosui trả lời.
Vì thế anh môn sinh cũ ăn mặc như một người hành khất và sống qua một
ngày với Tosui. Ngày hôm sau một trong số những người hành khất qua đời.
Tosui và môn sinh của ông khiêng cái xác đi vào lúc nửa đêm và chôn xác
đó trên một sườn núi. Sau đó họ trở về nơi trú ẩn của họ dưới cây cầu.
Tosui ngủ yên suốt đêm còn lại, nhưng anh môn sinh không thể ngủ được.
Khi trời sáng Tosui nói: "Chúng ta không phải xin ăn hôm nay. Ông bạn
quá cố của chúng ta đã để lại một ít ở đằng kia" Nhưng anh môn sinh
không ăn nổi một miếng nào cả.
"Ta đã bảo là anh không thể làm được như ta mà," Tosui kết luận. "Hãy đi ra khỏi đây và đừng quấy nhiễu ta nữa."
Một vị thiền sư nọ cất túp lều tranh trong rừng sâu sống ẩn dật tu
luyện không tranh đua với đời. Thiền sư tiếp xúc với cỏ cây nhiều hơn
con người cho nên tâm hồn ông rất thanh thản vô vi. Một đêm trăng sáng
vằng vặc, ông đi dạo chơi trong núi, giữa khung cảnh thanh tịnh huyền ảo
đó, ông đột nhiên khai ngộ ra tự tính bát nhã đã tiềm ẩn từ lâu trong
người.
Nhà sư vui mừng rảo bước ra về, không ngờ nơi ông tu hành đang có sự
viếng thăm của một kẻ trộm. Tội nghiệp cho tên trộm, hắn không tìm thấy
được vật gì quí giá trong túp lều tranh đành thất thểu bước ra thì chạm
mặt nhà sư. Thật ra thì nhà sư đã về đến nhà từ lâu nhưng ông ngại sẽ
làm cho tên trộm giật mình, vì vậy ông đã nấn ná phía bên ngoài đợi cho
tên trộm bước ra, tay ông cầm sẵn chiếc cà sa bạc màu mà ông đã mặc
nhiều năm trên người. Tên trộm hơi bỡ ngỡ chưa biết phải làm sao thì nhà
sư đã lên tiếng:
- Con lặn lội đường xa đến thăm, ta không nỡ để con ra về tay không.
Trời về khuya gió lạnh, con hãy cầm đỡ tấm cà sa này xem đó như một món
quà nhỏ của ta tặng.
Nói xong ông khoác chiếc áo cũ lên người tên trộm, con người đáng thương
cảm thấy ngỡ ngàng, hắn lầm lũi ra đi mà không nói được một lời.
Nhìn theo kẻ trộm dần dần khuất vào bóng đêm, nhà sư thở dài lẩm bẩm:
- Hỡi kẻ đáng thương, ta ước gì có thể tặng cho con một vầng trăng sáng vằng vặc của đêm nay.
Nhà sư không tặng được vầng trăng cho tên trộm cho nên ông cảm thấy xốn
xang. Trong đêm sáng trăng thanh tịnh này, không có gì đẹp và thanh
khiết cho bằng ánh trăng. Khi ông muốn mang ánh trăng tặng cho người
khác, ngoài cái đẹp của sự vật, còn có một ý nghĩa trong sạch và thanh
thoát cho tâm hồn. Từ ngàn xưa, những vị Đại Đức của Thiền Tông thường
dùng ánh trăng để tượng trưng cho tự tính của con người, lý do là vầng
trăng đêm mang ánh sáng dịu dàng, bình đẳng chiếu sáng khắp nơi. Làm thế
nào để tìm cho được một ánh trăng sáng trong tâm hồn thường là mục tiêu
của người theo đạo Thiền. Dưới mắt của nhà sư, kẻ trộm kia bị dục vọng
làm mờ đôi mắt, cũng như vầng trăng sáng bị mây đen che phủ. Một con
người không tìm được hướng đi, không tự chiếu sáng lấy mình, chính là
một điều vô cùng bất hạnh.
Sáng hôm sau, khi ánh bình minh đánh thức ông dậy, nhà sư mở mắt ra thì
thấy tấm áo cà sa đã được xếp ngay ngắn đặt bên cạnh từ lúc nào. Nhà sư
cảm thấy vui mừng hơn bao giờ hết, ông lẩm bẩm nói rằng:
- Cuối cùng thì ta cũng tặng được cho con người đáng thương kia một vầng trăng sáng rồi.
Chắc là bạn không thể ngờ là vầng trăng cũng có thể trở thành một món
quà tặng. Điều này kể ra cũng lý thú lắm nhỉ. Trong cuộc sống thực tế
của chúng ta, có những sự vật vô hình không thể nào làm quà tặng được.
Dĩ nhiên là bạn không thể nào nói với người ăn mày ngoài đường như thế
này: "Tôi tặng cho ông một chút từ bi". Chúng ta chỉ có thể dùng số
lượng tiền bạc hoặc hiện vật nhiều hay ít để đo lường tấm lòng từ bi đó.
Cũng như bạn không thể nào nói với người yêu của bạn rằng: "Anh tặng
cho em 100 cái tình yêu", bạn chỉ có thể tặng cho nàng 100 đóa hoa hồng.
Cũng từ số lượng hoa hồng, người ta có thể đo lường được mức độ say đắm
và tấm lòng trung kiên với người yêu. Tuy rằng lối tính toán và đo
lường này không phải lúc nào cũng chính xác. Đôi khi người tặng hoa hồng
có thể lại là người thật lòng thương yêu và tình yêu của họ lại còn
nồng nàn và chín chắn hơn cả những người tặng hột xoàn cho người đẹp
nữa, bạn ạ.
Thế nhưng trên cõi đời này, có nhiều sự việc như tình bạn, tình yêu,
chính nghĩa, hạnh phúc, bình an, trí tuệ đều là những thứ vô giá mà
chúng ta không thể nào dùng những sự vật hữu hình để đo lường. Đây cũng
là một điều làm cho giữa con người và con người có những sự hiểu lầm
nhau trên giá trị của những sự việc vô hình trừu tượng. Con người thường
dùng những vật hữu hình để diễn đạt những tín hiệu của tâm linh, như là
tình yêu thương, lòng hiếu thảo, sự biết ơn chẳng hạn. Thế nhưng trong
quá trình để đo lường những sự việc vô hình đó chắc chắn thế nào cũng có
những chênh lệch, mà sự chênh lệch này thường khiến cho bạn bè hiểu
lầm, tình ruột thịt trở thành thù nghịch, kẻ yêu nhau trở thành nghi kỵ,
thù ghét nhau.
Những tình cảm vô hình giá trị đó có một sự tiếp cận với triết lý của
Phật Học: "chỉ có thể lãnh hội mà không thể nào truyền đạt". Thí dụ như
một cái siết tay thân mật giữa đôi bạn thân, một nụ hôn nồng cháy của
đôi tình nhân, một nụ cười âu yếm giữa vợ và chồng, một tiếng kêu mẹ
thân yêu thắm thiết, hoặc một lời cầu chúc đẹp đều là những món quà tặng
cho nhau quí giá nhất mà không có một khối lượng tiền của nào có thể
mua được.
Trên thế gian không có một phương thức cố định nào có thể huấn luyện cho
con người biểu lộ những tình cảm vô hình đó. Thế nhưng theo tôi nghĩ,
phương pháp duy nhất để huấn luyện cho bản ngã có thể diễn đạt được
những tình cảm này là chúng ta hãy quay lại phán xét về chính bản thân,
tìm nhiều phương thức để làm giàu nhân cách, khiến cho bản thân chúng ta
trở thành thuần thiện, nhiệt tình, vô tư thì tự nhiên những tình cảm vô
hình bạn dành cho kẻ khác sẽ biểu hiện một cách rõ ràng trên sắc diện.
Khi sự chân thành của bạn có thể lộ ra trên sắc diện thì lúc đó bạn có
thể tặng một vầng trăng cho kẻ khác mà chắc chắn đối phương sẽ dễ dàng
nhận được món quà quí giá này.
Nếu lúc nào chúng ta cũng giữ được tấm lòng trong sạch, tính tình khoan
dung, tự tâm yên tĩnh, lục căn thanh tịnh thì đừng nói một ánh trăng mà
nhiều ánh trăng cũng có thể làm quà tặng cho kẻ khác được. ánh trăng
không chỉ đơn thuần dùng để tặng cho nhau mà còn có thể chiếu sáng lẫn
nhau, soi đường cho nhau, hồi hướng cho nhau.
Vì vậy khi nhà sư nói với tên trộm: "Ước gì ta có thể tặng cho con một
vầng trăng sáng", đó chính là tiếng nói của một tấm lòng từ bi, trong
sạch. Tấm lòng từ bi đã khiến cho kẻ trộm cảm nhận được và xấu hổ vì
hành động bất lương. Hắn đã ngộ đạo và quay lại con đường phúc thiện
tràn đầy ánh sáng.
Chân Thiện Mỹ
"Tôi có thể nhìn con được không?". Người mẹ hạnh phúc hỏi.
Đón bọc tả lót gọn gàng trong cánh tay rồi nhẹ nhàng mở các nếp khăn để nhìn khuôn mặt
nhỏ bé, người mẹ kinh hoàng.
Bác sĩ vội quay nhìn ra cửa sổ. Đứa bé sinh ra không có tai.
Thời gian đã chứng minh thính giác của đứa bé hoàn hảo. Duy chỉ có hình dáng bên ngoài của cậu bé không hoàn thiện.
Một ngày kia cậu bé từ trường chạy ào về nhà và lao vào trong đôi tay
của người mẹ, nàng thở dài và biết rằng cuộc đời của cậu sẽ là chuỗi
ngày đau
buồn. Cậu bé nức nở : "Có đứa gọi con là đồ quái thai"
Cậu bé lớn lên, đẹp trai, bất chấp sự khiếm khuyết. Một học sinh được
bạn bè yêu thích, lẽ ra anh có thể làm lớp trưởng, thế nhưng chỉ vì đôi
tai…
Tài năng thiên bẩm của anh lại phát triển, một tinh hoa về âm nhạc và văn chương.
"Con có thể hòa đồng với những thanh niên khác kia mà", Mẹ anh động viên, nhưng đó chỉ là sự ân cần của trái tim người mẹ.
Cha anh đã liên hệ với một nhà phẫu thuật.
"Không thể làm gì được ư? Tôi tin chắc tôi có thể ghép đôi tai nếu mua
được" Bác sĩ khẳng định. Sau đó là cuộc tìm kiếm người có thể hy sinh
đôi tai
cho một thanh niên trẻ.
Hai năm trôi qua.
"Con sắp vào bệnh viện đấy con trai ạ. Mẹ và cha đã tìm được người tặng
tai cho con. Nhưng đó là một điều bí mật". Người cha nói.
Cuộc giải phẫu thành công rực rỡ, và một nhân vật mới nổi lên. Tài năng
anh nở rộ xuất chúng, cuộc đời ở trường trung học và đại học là những
chuỗi
ngày hân hoan. Anh lập gia đình và làm công việc ngoại giao.
"Nhưng con cần phải biết!" Anh van nài cha. "Ai đã tặng cho con quá
nhiều như thế? Con không bao giờ có thể đền đáp xứng đáng cho người ấy"
"Cha cũng tin là con không thể". Người cha trả lời , "nhưng giao kèo bắt buộc con không được biết… đúng hơn là chưa được biết"
Nhiều năm trôi qua với điều bí mật của họ, nhưng ngày ấy vẫn đến… Một
trong những ngày tối tăm nhất chưa từng có trong đời đứa con. Anh cùng
cha
đứng nghiêng mình trước quan tài người mẹ. Dịu dàng và chậm rãi, người
cha đưa tay vén mái tóc dài màu nâu dày để lộ ra … đôi tai không còn của
người
mẹ.
"Mẹ đã nói rằng mẹ hạnh phúc khi không bao giờ cắt tóc", ông thì thào "Và không ai có thể nghĩ mẹ bớt đẹp đi phải không?"
… Vẻ đẹp thật sự không nằm trong dáng vẻ bên ngoài, mà ở bên trong trái
tim. Chân giá trị không nằm trong những gì hữu hình mà nó tồn tại trong
những
cái vô hình. Tình thương yêu thật sự không nằm trong những việc đã làm,
đã được biết đến, nó hiện hữu nơi những gì đã thực hiện trong thầm lặng.